mình thắng lợi. Những người thân thích của các lực sĩ cầu nguyện, công dân của các thành bang cầu nguyện. Phụ nữ không được quyền dự hội dù là phụ nữ quý tộc, vợ con của những nhà cầm quyền. Người phụ nữ duy nhất được quyền dự hội là viên nữ tư tế của nữ thần Đêmêter Khaminê. Nhưng nô lệ và những người Dã Man, tức là những người nước ngoài (Hy Lạp xưa kia gọi những người nước ngoài bằng danh từ này) lại được quyền dự hội song không được quyền thi đấu. Nếu vi phạm vào những điều nghiêm cấm, kẻ phạm tội sẽ bị xử tử bằng hình phạt đẩy xuống vực thẳm. Đêm trước ngày khai mạc không khí lại càng náo nhiệt hơn. Người ta đeo mặt nạ, rước đuốc, ca hát cổ động cho ngày hội và cho thành bang của mình. Các nhà thơ đọc những bài thơ vừa sáng tác ca ngợi đất nước Hy Lạp, thành bang của mình, ca ngợi vẻ đẹp của người lực sĩ, vinh quang của người chiến thắng, đọc thơ đệm theo đàn lia hoặc đàn kitar. Tiếng súc vật kêu – bị giết để làm lễ hiến tế, tiếng đàn sáo, ca hát, vui đùa, cầu nguyện hòa lẫn vào nhau tạo thành một bầu không khí tưng bừng, sôi động kéo dài gần như suốt đêm.
Bên bờ sông Anphê là những căn lều của những người dự hội, những đoàn vận động viên “làng slanhpich” đèn đuốc sáng rực. Ngày khai mạc, mọi người đi đến sân vận động với y phục đẹp đẽ nhất. Họ đội một vòng hoa trên đầu và ai ai cũng mang theo hoa để cổ động. Trước cửa sân vận động, ban tổ chức niêm yết một bản danh sách:
1- Tên những người bị chính quyền cấm không cho tham dự vào ban giám khảo. Những người này là những công dân đã phạm Pháp hoặc nổi tiếng là những người bịp bợm, dối trá, bè cánh, tóm lại là không đủ tư cách tuyển chọn vào ban giám khảo. Tất nhiên đây là những công dân của thành bang etiđ.
2- Tên những Henlanôđich đã huấn luyện cho các đoàn vận động viên trong những tháng vừa qua.
3- Tên các têôri của các thành bang sẽ chủ tọa lễ khai mạc, gồm có: lễ hiến tế các vị thần, lễ thề nguyền sẽ điều hành các cuộc thi đấu với tinh thần vô tư, trung thực và thượng võ. Ngày khai mạc chỉ tiến hành những nghi lễ chứ không thi đấu. Sau khi mọi người đã vào sân vận động, lễ khai mạc bắt đầu. Tiếp đó là lễ giới thiệu các thành viên trong ban giám khảo. Những thành viên này tuyển chọn trong số henlanôđích, có khi là toàn bộ số henlanôđích. Ngay từ đêm trước những henlanôđích trong ban giám khảo đã phải làm lễ thề nguyền trước bàn thờ thần Dớt là sẽ điều khiển, giám định các cuộc thi đấu với tinh thần vô tư, trung thực và thượng võ. Trong y phục đỏ thẫm, đầu đội một vòng hoa, những henlanôđích đứng lên với một niềm tự hào cao cả rồi xếp hàng đi diễu hành quanh sân vận động chào khán giả. Tiếp đến lễ thề nguyền và cuộc diễu hành của các đoàn vận động viên. Sân vận động được xây dựng ở phía đông thành slanhpi, tiếng Hy Lạp gọi là “xtađiông”. Điều làm cho chúng ta ngạc nhiên và khâm phục là sân vận động của Hy Lạp cổ đẽi đã có một quá mô khá rộng lớn và hơn nữa lại là một công trình kiến trúc đẹp đẽ. Nó có thể chứa được tới 50.000 người, chỗ ngồi xây bằng đá hoa cương. Riêng vũ đài cho các lực sĩ thi đấu cũng có một diện tích khá rộng: 213m x 29m. Cần phải nói thêm: trong đô thành slanhpi còn có một khu vực dành riêng làm nơi tập luyện cho các lực sĩ. ở đây ngoài sân bãi còn có những căn phòng để luyện tập những môn không cần phải có một không gian rộng, có phòng nghỉ, phòng tắm, phòng vệ sinh…
Và ngay cạnh: Stadion, tiếng La Tinh: stadium, tiếng Pháp: stade. khu vực tập luyện này là khu nhà ở cho các vận động viên từ bốn phương tới tập huấn trước khi bước vào thi đấu trong ngày hội. Lúc đầu các môn thi chưa phong phú, mới chỉ có môn thi chạy, cự lá và chiều dài của xtađiông, sân vận động, theo người Hy Lạp bằng 600 lần chiều dài của bàn chân người anh hùng Hêraclex, tính ra ngày nay là 197,27 mét. Từ Hội lần thứ XIV môn chạy xtađiông (cự lá ngắn) 197,27 mét
được tăng gấp đôi trở thành môn chạy dài. Hội lần thứ XV thêm môn chạy đường dài lúc đầu bằng 8 lần xtađiông, đến các lần Hội sau tăng lên 10, rồi 12 và cuối cùng là 24. Hội lần thứ XVIII đưa vào thi đấu năm môn phối hợp: chạy, nhảy, vật (palê), ném đĩa, phóng lao. Hội lần thứ XVIII đưa vào môn đấu quyền (pugmê pugilat). Hội lần thứ XXV đưa vào môn thi xe tứ mã (quadige) và môn păngcrat (pancrate, pankration), một môn võ kết hợp giữa vật với quyền. Hội lần thứ XXVII tổ chức một giải riêng cho các thiếu niên. Hội lần thứ LXV đưa vào môn chạy vũ trang. Từ thế kỷ V trước Công nguyên thêm tiết mục các nhà thơ biểu diễn các tác phẩm của mình. Môn thi xe tứ mã và thi ngựa tiến hành vào ngày cuối cùng, thường chỉ những công dân giàu có mới có điều kiện tham dự. Tuy nhiên, hội chấp nhận cả trường hợp người dự thi thuê ngựa và xe, thuê cả vận động viên điều khiển xe. Đương nhiên các môn thi đấu trong Hội slanhpich ngày xưa không phải chỉ có thế. Còn có những môn như “cử tạ” mà ngày xưa là cử một tảng đá lớn, nhảy dài, nâng “tạ” nhảy ba bước v.v… Ngày cuối cùng: lễ bế mạc. Một đám rước dẫn đầu là mười hai vị Henlanôđich, tiếp sau là những lực sĩ đoạt giải mà người Hy Lạp xưa gọi là slanhpiônich (Olámpionique), các viên tư tế, các quan chức trong bộ máy chính quyền, đi đến bàn thờ các vị thần làm lễ hiến tế tạ ơn. Các slanhpiônich được cử ra dâng lễ. Sau đó đám rước tiến về dinh thự- nơi ở và làm việc của các quan chức cao cấp trong bộ máy chính quyền. Tại đây chính quyền mở tiệc chiêu đãi trọng thể mừng Hội slanhpich kết thúc thắng lợi.
Những slanhpiônich, trong ngày kết thúc, được các Henlanôđich đội lên đầu một vòng hoa (lá) slivơ cắt ra từ những cây slivơ thiêng liêng trong khu vực đền thờ các vị thần. Đặc biệt có những cành ôlivơ được cắt bằng những con dao vàng để tặng riêng cho những slanhpiônich thiếu niên và gửi về tặng gia đình của “chú” slanhpiônich đó. Ngoài vòng hoa slivơ, những slanhpiônich còn được trao tặng một cành cọ. Những vận động viên nào đoạt được ba giải nhất trong ba môn thi đấu ở một kỳ hội thì được chính quyền tạc tượng đặt ở khu vực slanhpi. Tên tuổi của lực sĩ đó, quê hương, tên cha, được long trọng đọc nhiều lần cho các khán giả biết, được khắc vào dưới chân tượng, hoặc bia đá, bia đồng để làm tài liệu lưu trữ và kỷ niệm. Trong bữa tiệc chen vào giữa những tuần rượu nho thơm ngon nổi tiếng đưa từ đảo Lexbôx tới và trong làn khói thuốc thơm ngạt ngào, sản phẩm danh tiếng của xứ Texxali… là tiếng ca hát của đội đồng ca, tiếng ngâm thơ trầm bổng của các thi sĩ, tiếng đọc văn hùng hồn của những nhà hùng biện. Người ta chúc tụng nhau, trao đổi kinh nghiệm và hứa hẹn gặp nhau trong kỳ hội tới. Những thành bang có lực sĩ đoạt được danh hiệu slanhpiônich tổ chức một lễ rước đoàn lực sĩ của mình về rất trọng thể, đi đầu là những slanhpiônich. Đám rước khi về tới thành bang liền đi thẳng tới ngôi đền thờ vị thần bảo hộ và đích thân những slanhpiônich được vinh dự dâng vòng hoa chiến thắng lên bàn thờ.
Sau đó là “liên hoan” chào mừng những người chiến thắng. Có những thành bang trao giải thưởng bằng tiền cho những lực sĩ đoạt giải. Những slanhpiônich được chính quyền ban cho những sự ưu đãi đặc biệt: được miễn trừ các nghĩa vụ đóng góp, được dành cho những vị trí danh dự trong các nghi lễ hội hè của thành bang, ở một số thành bang những slanhpiônich thiếu niên cũng được hưởng quyền ưu đãi ưu tiên như người lớn.
Trong thời gian mở Hội slanhpich cũng đồng thời mở luôn hội chợ cho toàn nước Hy Lạp. Thương nhân của các thành bang đang có mối thù địch, nạn nhân của chính sách “cấm vận”, nhân dịp hội chợ này có thể ký kết những hợp đồng mua bán mà họ có thể thanh toán với nhau trong kỳ Hội slanhpich sau. Những cuộc khai quật khảo cổ học ở slanhpi vào những năm 1890- 1897 và 1936- 1941 cho chúng ta một hình ảnh tương đối cụ thể về khu vực tổ chức Hội slanhpich. Người ta tìm thấy quãng 130 bức tượng, 13.000 đồ đồng, 10 bia đồng và… đặc biệt quan trọng hơn nữa, người ta đã tìm thấy ngôi đền thờ thần Dớt, một công trình kiến trúc nổi tiếng do Libông xây dựng. Người ta cũng tìm thấy dấu vết, di vật của đền thờ người anh hùng Pêlôp xây dựng vào khoảng cuối thiên niên kỷ II trước Công nguyên. Trong số những bức tượng tìm được có bức tượng Hermex và chú bé Điônidôx của Praditen, bức Dớt slanhpiêng của Phiđiax. Quanh khu vực tổ chức hội là một cánh rừng thưa nhỏ, được trồng để làm hàng rào. Nơi đây dựng đền thờ các vị thần. Lớn nhất là đền thờ thần Dớt. Ngoài ra còn có những hành lang với những hàng cột bằng đá cẩm thạch, tượng các lực sĩ do các thành bang góp công góp của để trang trí cho khu vực thiêng liêng này. Toàn bộ khu vực slanhpi được các thành bang nhất trí quyết định là nơi bất Libon (quãng sau 486 trước Công nguyên), nhà kiến trúc danh tiếng. Praxitèle (quãng 390- 330 trước Công nguyên), nhà điêu khắc danh tiếng. Phidias (quãng 490- 431 trước Công nguyên), nhà điêu khắc vĩ đại. khả xâm phạm, là tài sản thiêng liêng của toàn đất nước Hy Lạp mà các thành bang có nghĩa vụ phải bảo vệ và làm cho nó ngày càng đẹp đẽ hơn lên. Từ lần mở hội đầu tiên năm 776 trước Công nguyên (thế kỷ VIII) ảnh hưởng của Hội slanhpich dần tỏa rộng và dần thu hút các thành bang trên đất Hy Lạp tham dự.
Cho đến thế kỷ VII trước Công nguyên thì slanhpich đã là nơi tụ hội của cả thế giới Hy Lạp. slanhpi lúc đầu chỉ là một khu đất thánh nhỏ hẹp sau dần trở thành một trung tâm văn hóa và tôn giáo, chính trị và xã hội của thế giới Hy Lạp. Bức tượng thần Dớt bằng vàng của nhà điêu khắc đẽi tài Phiđiax sau cuộc chiến tranh Hy Lạp – Perx (Ba Tư) lần thứ hai (480- 449 trước Công nguyên) được thành bang Aten hiến cho trung tâm văn hóa – tôn giáo slanhpi. Những người Xiraquádơ hiến một kho vàng (380 trước Công nguyên). Thành bang Xpart dâng một chiếc khiên vàng cho thần Dớt (458 trước Công nguyên) và v.v… Đương nhiên những sự cam kết của các thành bang đối với khu vực đất thánh này khó mà có giá trị vững chắc. Lịch sử biến đổi, những lời cam kết cũng biến đổi theo. Năm 364 trước Công nguyên, những người Arcađi đem quân đánh chiếm slanhpi. Sau đó là thời kỳ Makêđoan thống trị toàn đất nước Hy Lạp (từ 337 trước Công nguyên) và tiếp theo là Đế quốc La Mã (từ 200 trước Công nguyên). Trong những thời kỳ đen tối đó, Hội slanhpich vẫn được tổ chức nhưng ý nghĩa xã hội – chính trị của nó không còn như trước. Dưới sự thống trị của Đế quốc La Mã, một loại công chúng mới với thị hiếu mới ra đời. Hội slanhpich không còn sức thu hút và hấp dẫn như xưa. Những cuộc đấu võ đẫm máu giữa hai võ sĩ (gladiateur), giữa hai nhóm võ sĩ, giữa người và ác thú trở thành Syracuse, một thành bang trên đảo Xicile thuộc địa của Hy Lạp.
niềm vui lớn của thế giới quý tộc La Mã và đám binh sĩ “tứ chiếng” của các đơn vị lê dương. Theo lệnh của hoàng đế Nêrông Hội slanhpich phải tổ chức thêm môn thi đấu… thơ! Vị hoàng đế tàn bạo này đã từng đích thân tham dự hội và ra lệnh xây đền thờ Antix. Từ triều đẽi của Hađriêng… slanhpich bắt đầu suy tàn. Năm 394 sau Công nguyên, hoàng đế La Mã Têôđodơ I ra lệnh bãi bỏ Hội slanhpich, coi nó là một tàn dư của đa thần giáo cổ đẽi cần phải tiêu diệt để giành chiến thắng cho Thiên Chúa giáo lúc đó mới ra đời. Tiếp đến năm 426, hoàng đế Têôđodơ II ra lệnh đốt toàn bộ khu vực slanhpi. Sau đó những trận động đất xảy ra vào năm 521- 522 phá hủy nốt những công trình văn hóa nghệ thuật ở khu vực này. Về tục chạy tiếp sức truyền ngọn lửa thiêng về đốt ở sân vận động, khai mạc cho ngày hội, chúng ta không rõ có từ kỳ hội năm nào. Nhưng nguồn gốc của tục lệ đó là ở Hội Panatênê ở vùng đồng bằng Attích, nơi có thành bang Aten. ở Attích, sau nữ thần Atêna, vị thần bảo hộ cho vùng này, được thờ cúng phổ biến là đến hai vị thần Prômêtê và Hêphaixtôx. Nhân dân coi hai vị thần này như là những vị thần đã khai hóa cho họ, ban cho họ ngọn lửa hồng, dạy họ biết bao nghề: rèn, đúc, mộc, gốm v.v…
Vì thế trong ngày Hội Panatênê, bên cạnh những môn thi đấu như đua ngựa, đua xe ngựa, đua thuyền là phần rất quan trọng của Hội còn có một cuộc thi chạy truyền đuốc tiếp sức vào ban đêm mà tiếng Hy Lạp gọi là Lampadédromie với ý nghĩa tượng trưng truyền ngọn lửa của Prômêtê và Hêphaixtôx. Chỉ những thiếu sinh quân Néron (37- 68 sau Công nguyên) cầm quyền từ 54- 68 là một bạo chúa đã giết anh, giết mẹ, giết vợ, đốt kinh thành Rôma, khủng bố tín đồ Thiên Chúa giáo. Hadrien hoặc Adrien (76- 132 sau Công nguyên) cầm quyền từ 117- 138. Théodose I (346 hoặc 374- 395) cầm quyền từ 379- 395). Théodose II (401- 450) cầm quyền từ 408- 450. (éphèbe) mới được tham dự cuộc thi này. Xuất phát từ khu rừng nhỏ thiêng liêng Acađêmi, nơi yên nghỉ của người anh hùng Acađêmôx, các thiếu sinh quân châm ngọn lửa hồng vào đuốc và truyền nhau, tiếp sức chạy về Aten. Năm 1894, theo sáng kiến của một nhà hoạt động xã hội người Pháp, Pieđơ Cubertanh (Pierre de Coubertin 1863- 1937) các nước cử đẽi diện đến họp ở Paris để bàn về việc khôi phục lại Hội slanhpich. Cuộc họp quyết định thành lập ủy ban slanhpich thế giới và tổ chức Hội slanhpich lần thứ I ở Hy Lạp. Năm 1913, các nước đã nhất trí lấy biểu trưng của Hội slanhpich là hình vẽ năm vòng tròn gắn vào nhau (ba trên, hai dưới với các màu sắc: xanh da trời (châu âu), vàng (châu á), đen (châu Phi), xanh lá mạ (châu úc), đỏ (châu Mỹ), khẩu hiệu của Hội slanhpich là: Nhanh hơn nữa. Cao hơn nữa. Mạnh hơn nữa. (tiếng La- tinh: Citius, Altius, Fortius).
Cuộc họp cũng đã xác định bài ca chính thức của Hội. Năm 1898, sau 1502 năm bị gián đoạn, Hội slanhpich lần thứ I của thời hiện đẽi khai mạc tại Aten, thủ đô của đất nước đã khai sinh ra nó. Từ đó trở đi cứ bốn năm một lần, Hội slanhpich luân phiên được mở ở từng nước trên thế giới với tinh thần hòa bình và hữu nghị. Để nhấn mạnh đến tinh thần này và mối liên hệ, thừa kế một truyền thống văn hiến của người Hy Lạp cổ của nhân loại, nhân loại tổ chức lễ châm đuốc, lấy ngọn lửa hồng từ đất nước Hy Lạp truyền nhau chạy tiếp sức về nơi sẽ diễn ra các cuộc thi đấu để làm lễ khai mạc. Với sự phát triển của nền văn minh hiện đẽi, nội dung thi đấu của Hội slanhpich ngày càng phong phú với nhiều môn thể dục thể thao mà xưa kia người Hy Lạp chưa hề biết đến. Ngày nay, danh từ slámpique hoặc slámpiade được thế giới sử dụng như một danh từ chung chỉ những hội lớn thi đấu thể dục thể thao trong một nước hoặc nhiều nước trước một khu vực. Người ta còn sử dụng cả danh từ spartakiade. Mở rộng nghĩa hơn nữa slympique, slimpiade, còn chỉ một cuộc thi đấu quốc tế. Thí dụ: Jeux Olympiqueséchquéens thi đấu quốc tế cờ vua, International Mathématic Olympic (I. M. O): thi đấu toán quốc tế.
Nữ thần Hêra vĩ đại, vợ của vị thần tối cao Dớt, là vị nữ thần của hôn nhân và gia đình. Nàng bảo vệ cho hạnh phúc của những đại lứa đã gắn bó với nhau bằng lễ kết hôn, trông nom và săn sóc đến việc sinh nở con cái của những đại vợ chồng để có thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước, đời đời bất diệt. Nàng lại là vị thần bảo vệ cho những bà mẹ vừa mới sinh nở và những trẻ sơ sinh mới cất tiếng khóc chào đời sao cho, nói như người Việt Nam chúng ta là được mẹ tròn con vuông. Người Hy Lạp xưa kia thường cầu khẩn Hêra phù hộ cho gia đình được đầm ấm, nhiều con đông cháu. Hêra là con của Tităng Crônôx và Titaniđ Rêa, là chị ruột của thần Dớt. Sau khi Dớt cho Crônôx uống liều thuốc tiên để Crônôx phải nhả các anh, các chị của mình ra thì Hêra được mẹ đưa đi đến một nơi xa biệt tích biệt tăm, giao cho thần skêanôx và nữ thần Têtix nuôi hộ. Hêra sống xa thế giới slanhpơ trong một thời gian khá dài, chẳng rõ là mấy chục, mấy trăm năm. Thần Dớt đã đến tìm nàng và hai người cưới nhau, thành vợ thành chồng từ đấy. Từ đó nữ thần Hêra trở thành vị nữ thần có uy quyền to lớn như thần Dớt, vị nữ thần cai quản các vị thần, kể cả nam thần và loài người. Đám cưới của họ diễn ra rất trọng thể trên thiên đình bởi vì đây không phải là đám cưới của một vị thần như trăm ngàn vị thần khác mà là của vị thần tối cao, cầm đầu các vị thần. Trong những tặng phẩm của các vị thần “cấp dưới” anh em, bè bạn đem đến mừng hạnh phúc của đại vợ chồng mới, có tặng phẩm của nữ thần Đất Mẹ Gaia, là quý nhất. Đó là một vườn cây thơ mộng trong đó có những cây táo có quả vàng ở mãi tận miền cực tây của đất. Nữ thần Hêra giao cho ba chị em nữ thần Hexpêriđ trông coi, vì thế người ta thường gọi là vườn táo Hexpêriđ. Các nữ thần Hơr và Irix luôn luôn theo hầu bên Hêra. Họ mặc cho nàng những bộ áo đẹp nhất do bàn tay khéo léo của nữ thần Atêna dệt để tặng vị nữ thần tối cao. Hêra đẹp lộng lẫy, uy nghiêm, có đại mắt bò cái và cánh tay trắng muốt, phong thái đường bệ, kiêu kỳ. Sắc đẹp của nàng đã khiến cho tên Ghigăngtôx – Đại khổng lồ, tên là Porphiriông mê cảm. Trong cuộc giao tranh với Dớt, chính tên này đã hô hào đám lâu la dưới trướng của hắn xếp chồng những quả núi lên để hắn leo vào ngọn slanhpơ bắt cóc Hêra. May thay Porphiriông chưa kịp làm nhục Hêra thì Dớt đã kịp thời trông thấy. Và như đã kể, thần Dớt và người anh hùng Hêraclex kịp thời kết liễu tên loạn tặc, cứu thoát Hêra. Chưa hết, một vị vua của những người Lapit, tên là Ixiông (Ixion) cũng lại bị dục vọng làm cho mất trí, định ve vãn Hêra. Nhưng làm sao một người trần lại có thể lên trên thiên đình gặp được Hêra, chiêm ngưỡng dung nhan của nữ thần mà đem lòng tơ tưởng, mưu tính một vụ quáến rũ, ái ân? Nguyên do là như thế này: Ixiông là một con người bội bạc. Y cưới nàng Dina, con của nhà vua Điênô làm vợ. Trước khi cưới, y hứa với bố vợ sẽ đem đáp lễ bằng những tặng vật quý giá, hậu hĩ. Nhưng khi cưới được vợ rồi thì y vỗ tuột. Hơn thế nữa, cái tên bội ước này lại giết luôn cả bố vợ và vứt xác ông vào một cái hố. Tôi ác của y thật tày trời, vừa là một kẻ bộ ước vừa là tên sát nhân, can tội giết người khá thân thiết đối với y. Không một viên tư tế nào dám làm lễ cầu xin các vị thần tha tội cho y. Ixiông chỉ còn cách trực tiếp cầu khấn thần Dớt.
Tuy Dớt nổi tiếng là một...