của Dớt xem ra thì rất thanh bình nhưng thật ra có những cuộc họp khá nảy lửa, sóng gió, thậm chí kéo dài tới chín ngày trời, ý kiến bất đồng rất sâu sắc. Thần Dớt nhiều khi phải xử các vụ kiện cáo, khiếu nại giữa các vị thần hết sức lôi thôi, đau đầu nhức óc. Các vị thần lại luôn luôn đi đi về về cho nên cung điện slanhpơ tuy bốn mùa mây phủ song xem ra bận rộn khác thường. Thế giới slanhpơ điều khiển thế gian quả không phải là một công việc dễ dàng. Pôdêiđông và các thần biển ở đáy biển sâu có một cung điện vô cùng đẹp đẽ và tráng lệ. Đó là cung điện của Pôdêiđông vị thần trị vì, cai quản toàn bộ thế giới biển nước mênh mông bao quanh mặt đất, Pôdêiđông là con của Crônôx và Rêa, là anh ruột của thần Dớt. Người xưa kể lại, Pôdêiđông kết bạn với những con quỷ biển khá thân thiết tên là Tenkhin (Tekhine). Có người nói chính lũ quỷ biển này đã nuôi nấng Pôdêiđông lúc nhỏ như những Quárét đã nuôi nấng Dớt (chẳng rõ trước hay sau khi Pôdêiđông bị Crônôx nuốt?). Tekhine là con của thần biển Pôngtôx và nữ thần Gaia, hình thù nom rất quái dị, nửa người nửa thuồng luồng, ba ba… nhưng lại có chân bơi đi bơi lại trên mặt nước như những mái chèo.
Là giống quỷ dữ, chúng luôn luôn gây ra những tai họa khủng khiếp cho thế giới loài người như: biển động, sóng thần, mưa đá, bão lụt, núi lửa phun, đất sụt lở… Vì thế mặc dù chúng có tài rèn sắt nấu đồng, sáng chế ra các loại vũ khí, đồ dùng, đúc tượng các vị thần linh, bất tử song các vị thần vẫn không thể nào xóa bỏ cho chúng cái tội làm cho đất đai cằn cỗi, mùa màng thất bát, nhất là cái tội làm cho nước sông Xtich quanh năm lúc nào cũng bốc khói, tỏa hơi. Thế giới slanhpơ đã họp và quyết định trừng phạt lũ quỷ dữ thù địch với loài người và khinh thị thần thánh này. Thần Dớt biến chúng thành những ngọn núi đá. Có người lại kể, Apônlông với những mũi tên thần đã kết liễu đời chúng. Tenkhin có một người em gái tên là Galia, cô nàng “phải lòng” Pôdêiđông. Hai người lấy nhau sinh ra được một người con gái đặt tên là Rôđa, vì lẽ đó hòn đảo quê hương của Tenkhin mang tên là Rôtơ (Rhodoạ, Rohdoạ). Nhưng người vợ chính thức mà Pôdêiđông yêu say đắm lại là nàng Amphitơrit (Ampitrite). Chuyện tình duyên của họ đối với người trần thế chúng ta quả là có… hơi lạ, hơi khác thường, song cũng không đến nỗi khó hiểu. Amphitơrit là con gái của lão thần Biển Nêrê (Nérée) đầu bạc, vị thần được mệnh danh là “ông già của biển cả”, một vị thần mà trong trái im lúc nào cũng chỉ có những ý nghĩ quang minh chính trực và nhân hậu. Lão thần Biển Nêrê tính nết hiền từ, thẳng thắn, rất đáng yêu như lúc biển khơi trời yên sóng lặng, trăng tỏ mây quang. Lão chẳng hề biết nói dối với một ai bao giờ, sẵn sàng dùng tài tiên tri của mình chỉ bảo cho mọi người biết những điều họ hỏi. Lão có tài biến mình thành mọi loài, mọi vật. Nêrê lấy Đôrix (Doris) một skêaniđ làm vợ. Đôi
vợ chồng này sinh được năm mươi người con gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, gọi bằng một cái tên chung là Nêrêiđ (Néréides) tức là những tiên nữ của biển cả, con của lão vương Nêrê. Chính trong số Nêrêiđ này, một cô làm thần Pôdêiđông “ra ngẩn vào ngơ” mất mấy năm trời là nàng Amphitơrit, một cô khác làm thần Dớt “đứng ngồi không yên” là nàng Thêrix mà sau này trở thành vợ của lão vương Pêtê và là mẹ của người anh hùng Akhin. Bữa kia những nàng Nêrêiđ rủ nhau đi tắm biển.
Tắm xong các Nêrêiđ lên bờ vui chơi, ca hát. Các nàng không biết rằng có một vị thần đã bắt gặp và say sưa ngắm nhìn cảnh đẹp thần tiên ấy. Vị thần đó là Pôdêiđông. Vâng, đúng thế. Nhưng nếu như Pôdêiđông chỉ say sưa, xúc động trước vẻ dẹp của các tiên nữ đang ca múa giữa cảnh trời mây lồng lộng, sóng nước bao la, gió vi vu và biển rì rào thì đã không nên chuyện. Pôdêiđông say mê cảnh đẹp, song Pôdêiđông lại say mê một tiên nữ đẹp trội hẳn lên, đẹp một cách kỳ lạ khác thường trong đám Nêrêiđ. Đó là nàng Amphitơrit. Và Pôdêiđông đã tìm cách gặp nàng để giãi bày tâm sự. Nhưng Amphitơrit từ chối và trốn biệt. Nàng đoán biết việc từ chối của nàng tất sẽ dẫn đến những chuyện không hay cho nên nàng trốn đi một nơi xa biệt tích biệt tăm, đến tận nơi kiệt cùng của biển, quê hương của thần Atlax. Nhớ người đẹp bồn chồn khắc khoải, Pôdêiđông đi tìm khắp nơi này nơi khác, năm này năm khác nhưng vẫn không thấy tăm hơi. Một con cá heo thông cảm với nỗi lòng của vị thần đã mách bảo cho thần biết nơi Amphitơrit trú ngụ: một cái hang ở mãi vùng biển cực Tây và Pôdêiđông đã đến tận vương quốc của thần Atlax bắt Amphitơrit về làm vợ. Có chuyện lại kể, chính con cá heo biết nơi trú ngụ của Amphitơrit đã bắt nàng đem nộp cho Pôdêiđông. Để trả ơn con cá heo, Pôdêiđông đã cho giống cá heo khi chết biến thành một chòm sao trên trời. Amphitơrit sống với chồng ở trong cung điện vàng đẹp đẽ dưới biển sâu. Nàng sinh được một trai đặt tên là Tơritông (Triton). Tơritông, tiếc thay chẳng giống mẹ, chẳng xinh đẹp như mẹ chút nào mà lại nửa người nửa rắn và có những hai cái đuôi rắn. Có người lại nói hình thù Tơritông rất đáng sợ: mặt người nhưng miệng lại rộng đến mang tai, răng nhọn và dài như răng lợn lòi, hổ, báo. Thay vào hai tai là hai cái mang cá lúc nào cũng thở phập phồng. Mình mẩy thì sần sùi như vỏ sò, vỏ ốc. Tay chân là của giống rùa, ba ba. Tơritông thường cầm trong tay một chiếc vỏ ốc cực lớn. Đó là chiếc tù và như chiếc kèn lệnh mà khi Tơritông cất tiếng thổi lên là có thể gây ra sóng to gió lớn hoặc có thể dẹp yên mọi sóng gió làm cho mặt biển trở lại cảnh thanh bình. Nhưng Tơritông chỉ được phép thổi tù và khi có lệnh của thần Pôdêiđông. Những người đi biển mỗi khi nghe thấy tiếng tù và của Tơritông rúc lên u u, oang… oang… là phải mau mau tìm nơi trú ẩn. Họ coi Tơritông như một vị thần nhân đức đã báo trước cho họ biết tai họa và họ có thể cầu khẩn Tơritông để Tơritông truyền đạt nguyện vọng của họ tới thần Pôdêiđông. Tiếng tù và của Tơritông thổi lên to, to lắm, không ai là người không nghe thấy. Đã có kẻ thổi kèn ngông cuồng tưởng rằng tiếng kèn của y thổi là to nhất trên đời, tức khí vì tiếng tù và của Tơritông, thách thức Tơritông thi đấu. Và y ra sức thổi, phồng mồm trợn mắt lên thổi, phình bụng, gân cổ lên thổi, thổi đến đỏ mặt tía tai, thổi đến sùi cả bọt mép ra mà không sao át được tiếng tù và của Tơritông. Kết cục là, kẻ đó, cái tên nê liều lĩnh to họng lớn phổi đó, kiệt sức, đứt hơi, chết thẳng cẳng. Trong cuộc giao tranh giữa các vị thần slanhpơ với những người Ghigăngtôx
- Đại khổng lồ, chỉ nghe thấy tiếng tù và của Tơritông là các tên Ghigăngtôx hồn xiêu phách lạc, cắm đầu chạy. Quần tụ chung quanh Pôdêiđông, người anh hùng vĩ đẽi của Dớt, là lão thần biển Nêrê và các con gái, những nàng Nêrêiđ, là thần biển Prôtê, Glôcôx, là Tităng skêanôx. Prôtê (Prôtéc) theo một số người thì là con của Pôdêiđông và nữ thần Têtix, còn một số người khác thì lại bảo Prôtê là gia nhân của thần Pôdêiđông. Đây là một vị thần già đầu bạc, quê hương ở đảo Pharôx gần Ai Cập. Pôdêiđông giao cho Prôtê chăn nuôi những con hải cẩu, tài sản quý giá của mình. Prôtê có biệt tài tiên tri, tiên đoán, chẳng những biết việc tương lai mà còn biết tỏ tường cả những việc quá khứ và hiện tại. Nhưng Prôtê không tốt bụng như lão vương Nêrê đầu bạc. Muốn hỏi được Prôtê phải kiên trì và dũng cảm, phải bất ngờ đến chộp được Prôtê. Bị bắt, Prôtê sẽ biến thành các con vật, muôn hình muôn vẻ như mặt nước có thể biến hóa thành bất cứ con vật gì, hình vẻ gì. Dũng tướng Mênêlax sau cuộc chiến tranh Tơroa trở về quê hương đã lạc bước tới xứ sở của Prôtê. Nhờ con gái của Prôtê, nàng OEyđôtê, chỉ bảo cho cách đối xử với cha mình. Mênêlax hỏi được đường về quê hương và biết được số phận tương lai những chiến hữu của mình. Mặc cho Prôtê biến hóa lúc thì sư tử, hổ, báo… rồi thì rắn, rồng, Mênêlax cứ bám chặt lấy lưng Prôtê cho đến lúc Prôtê đành chịu, phải giải đáp những câu hỏi của Mênêlax. Ngày nay trong văn học một số nước châu âu để chỉ cái gì khó nắm bắt, hay biến đổi, đa dạng muôn hình muôn vẻ người ta thường ví: “Giống như Prôtê” “Loại Prôtê”. Prôtê trở thành danh từ chung chỉ người tính khí thất thường, hay thay đổi ý kiến. Liên quan đến Prôtê – Nước – Tài tiên tri trong tiếng Nga có thành ngữ Như là đã nhìn vào nước ấy, nghĩa là đã biết trước mọi việc, tương đương với thành ngữ Đi guốc vào bụng trong tiếng Việt. Còn Glôcôx (Glaucoạ) vốn xưa kia là người đánh cá nghèo ở đất Bêôxi Hy Lạp. Một hôm chàng kéo được một mẻ lưới đầy cá, nhưng lạ thay, lũ cá mà chàng trút xuống trên bờ cỏ cứ quẫy mạnh, và lao hết xuống biển, không tài nào ngăn giữ được. Ngạc nhiên trước sự việc lạ lùng đó, Glôcôx bứt thử mấy lá cỏ trên bờ đưa lên mũi ngửi và rồi… đưa vào miệng nhấm nhấm thử xem chúng có hương vị gì. Ngờ đâu, đây lại là thứ cỏ thần do Tităng Crônôx xưa kia gieo trồng. Vì thế chỉ phút chốc Glôcôx cảm thấy trong người thay đổi khác thường. Chàng thấy biển khơi đẹp một cách lạ lùng. Chàng ngắm nhìn biển say sưa như ngắm nhìn những người thân yêu nhất. Chàng bỗng nảy ra ý định xuống tận đáy biển sâu để xem xem thế giới của thần Pôdêiđông cai quản nó kỳ lạ như thế nào. Và trái tim chàng đã thôi thúc chàng lao đầu xuống biển. Thần skêanôx, nữ thần Têtix và các nàng Nêrêiđ đón được Glôcôx. Họ đã dùng tài năng và quyền thế của mình tẩy trừ chất người trần tục đoản mệnh của Glôcôx đi để cho chàng trở thành một vị thần bất tử. Và thế là Glôcôx trở thành một ông già râu tóc lòa xòa như rêu như rong biển màu tím sẫm, đặc biệt Glôcôx lại mọc ra một cái đuôi như đuôi cá. Glôcôx có tài tiên đoán như Nêrê và Prôtê.
Chàng rất tốt bụng với những người đi biển, lắng nghe mọi lời cầu nguyện của họ một cách trân trọng và sẵn sàng giúp đỡ họ khi cần thiết. Còn thần skêanôx, như chúng ta đã biết, thuộc về thế hệ thần già. Danh dự và vinh quang của skêanôx kể ra không thua kém gì thần Dớt nhưng quyền cai quản đẽi dương và sóng nước thì đã chuyển vào tay Pôdêiđông. Vì thế những công việc bề bộn của thế giới slanhpơ không hề làm bận tâm đến skêanôx. Các con trai và con gái của thần vẫn được trị vì mọi ngọn nguồn sông suối. Đáng yêu, đáng quý nhất là những tiên nữ Nêrêiđ. Các nàng thường từ đáy biển sâu đội nước, nổi lên vui chơi trên mặt sóng dập dềnh. Khi thì các nàng nắm tay nhau thành một hàng dài lướt đi trên mặt nước, khi thì quây lại thành một vòng tròn ca múa theo nhịp sóng lâng lâng đang trườn lượn nối đuôi nhau lớp lớp chạy vào bờ. Gió lộng của biển khơi đưa tiếng ca của các Nêrêiđ đi khắp mọi nơi. Tiếng ca đập vào vách đá và vách đá bắt lấy lời ca, nhắc lại, vang vọng ngân nga khắp bờ biển có bãi cát trắng dài. Người ta nói, các Nêrêiđ bảo vệ cho những chuyến đi biển của con người được bình yên vô sự, đến nơi đến chốn, để cho mặt biển thuyền bè xuôi ngược đông vui. Thần Pôdêiđông không phải chỉ ở trong cung điện. Thần luôn luôn đi lại, xem xét thế giới của mình cai quản. Và thần cũng phải luôn luôn lên đỉnh slanhpơ để dự các cuộc họp. Một cỗ xe có bốn con ngựa thần đưa Pôdêiđông đi. Pôdêiđông đứng hoặc ngồi trên xe, tay cầm chiếc đinh ba (trident), vũ khí do thần Thợ Rèn Hêphaixtôx làm ra. Nước rẽ ra mở đường cho những con thần mã tung vó. Chiếc xe lướt đi trên mặt biển mênh mông và khi cần những con thần mã đưa chiếc xe vượt lên mặt biển rẽ mây bay tới đỉnh slanhpơ cao ngất. Mọi người rất sợ cây đinh ba trong tay thần Pôdêiđông. Chỉ cần thần quay đầu nó lại, phóng một nhát xuống mặt biển là sóng quẫy lên, rồi lớp lớp dâng cao ngút, sôi réo ầm ầm. Bão tố gào thét quật những con sóng cao ngất vào bờ làm rung chuyển cả mặt đất. Nhưng chỉ cần thần cầm ngang cây đinh ba hay quay ngược nó lại cho mũi nhọn chĩa lên trời là mặt biển lại yên tĩnh đáng yêu. Các tiên nữ Nêrêiđ lại tiếp tục vui chơi, ca múa và những đàn cá heo lại nhảy múa bơi lượn tung tăng vây quanh cỗ xe tuyệt diệu của vị thần làm rung chuyển mặt đất. Khi ấy gió lại đưa bàn tay trìu mến vuốt ve trên mặt biển mênh mông đang thở đều đặn phập phồng. Pôdêiđông tiếng Hy Lạp có nghĩa là: “Chồng của đất”. Theo các nhà nghiên cứu cái tên này có một nguồn gốc xa xưa trong huyền thoại tối cổ từ nguồn gốc tô tem (ngựa) cho đến việc chuyển Pôdêiđông sang một vị thần Đất.
Thế giới âm phủ của Hađex
Hađex, người anh của Dớt, theo sự rút thăm chia phần, được cai quản thế giới sâu thẳm trong lòng đất và những vong hồn. So với bầu trời mà Dớt cai quản, với đẽi dương mà Pôdêiđông trị vì thì vương quốc của Hađex thật tối tăm lạnh lẽo. Nơi đây không một tia nắng lọt vào, không một ánh trăng soi tới, không có cuộc sống tưng bừng, náo nức, ấm cúng, nhộn nhịp của thế giới slanhpơ và thế giới loài người trên mặt đất phì nhiêu. Những người trần thế đoản mệnh khi kết thúc số mệnh của mình đều biến thành những hình bóng vật vờ đi vào vực thẳm sâu hun hút dẫn tới lòng đất. Những bóng hình ấy phải đi qua con sông Xtich (ạtáx) nước đục bùn lầy quanh năm lạnh buốt. Xưa kia, Xtich là một tiên nữ Nanhphơ, con của thần skêanôx, sống trong một cái động đẹp đẽ ở vùng Arcađi, bên một suối nước trong veo. Khi những người Đại khổng lồ Ghigăngtôx nổi dậy chống lại thế giới slanhpơ, Xtich theo cha đứng về phe thần Dớt. Dẹp xong vụ bạo loạn, để khen thưởng công lao của Xtich thần Dớt ban cho Xtich một đặc ân trở thành một con sông hết sức thiêng liêng đối với thế giới thần linh và những người trần, con sông ở dưới âm phủ. Từ đó trở đi những người trần thế khi từ giã mặt đất tràn đầy ánh sáng để bước vào vương quốc tối tăm của thần Hađex phải đi qua con sông Xtich. Các vị thần khi đứng trước một sự việc hệ trọng cần phải thề nguyền, cam kết đều phải viện dẫn sông Xtich ra để làm người chứng giám. Nhưng làm sao con sông Xtich dưới âm phủ lại có thể hiện diện ở thế giới slanhpơ để chứng giám cho lời thề nguyền của một vị thần nào đó? Nữ thần Irix (Iris) sẽ lo toan chu tất việc này. Mỗi khi có việc thề nguyền, Hadès, thần thoại La Mã: Pluton. được biết trước, nữ thần Cầu Vồng Irix bằng đôi cánh, nhanh nhẹn và nhiều màu sắc của mình, bay ngay xuống thế giới âm phủ múc về một cốc nước sông Xtich. Và trước cốc nước thiêng liêng này, vị thần đưa tay ra trước mặt, trịnh trọng nói lên lời cam kết, thề nguyền của mình. Được nhận sứ mạng thiêng liêng chứng giám lời thề, Xtich có quyền trừng phạt kẻ không tôn trọng lời thề, không thực hiện đúng lời cam kết. Vị thần nào phạm tội xấu xa đó sẽ bị phạt một năm ròng không được uống rượu thánh và ăn các thức ăn thần, nghĩa là những thức ăn vốn dành riêng cho các vị thần để nuôi sống bản chất bất tử trong con người các vị. Không ăn một năm, tất nhiên vị thần nào đó bị trừng phạt, sẽ chết một năm, nghĩa là ngủ một giấc say như chết một năm. Nhưng không phải chỉ có thế. Hình phạt như thế thì quá nhẹ. Kẻ phạm tội còn phải chịu tiếp một hình phạt nữa: bị cấm, bị “đình chỉ” không cho dự các cuộc họp của thế giới thần thánh suốt chín năm liền. Thế giới âm phủ không phải chỉ có một con sông Xtich. Các vong hồn còn phải đi qua những con sông khác nữa, như Akhêrông (Achéron, Akheron), Côkit (Cooáte), Pirirphlêghêtông (Pyriphlégéthon), Lêtê (Léthé). Chúng ta không thấy người xưa kể lại rõ ràng về chặng đường mà các vong hồn đi xuống thế giới âm phủ sẽ phải qua con sông nào trước, con sông nào sau và con sông nào là ở cuối của đoạn đường tối tăm u ám dó. Akhêrông xưa kia vốn là một con sông ở trên trần. Khi các Tităng nổi dậy chống lại Dớt, Akhêrông đã cung cấp nước cho các Tităng. Vì tội tiếp tay cho những kẻ phản loạn nên Dớt trừng phạt Akhêrông đày xuống âm phủ. Các vong hồn đi xuống thế giới của thần Hađex phải do vị thần Hermex dẫn đường. Khi phải làm công việc không vui gì đó thần Hermex mang tên là Psikhôpôm. Hermex Psikhôpôm dẫn đường cho các vong hồn đến bờ sông Xtich hoặc Akhêrông là xong nhiệm vụ. Một lão già thân hình tiều tụy, đầu bạc, răng long, áo quần rách rưới, nhem nhuốc, vẻ mặt lạnh lùng u ám, lầm lì tên là Kharông (Charon Kharon) đứng chờ sẵn bên bờ sông với con đò để đưa tiếp những vong hồn vào vương quốc tối tăm của thần Hađex. Kharông vốn là con của Chốn Tối Tăm vĩnh cửu – rép và nữ thần Đêm Tối Nix. Có thể nói trên đời này ít có con người nào lại khắc nghiệt, cứng rắn, lạnh lùng như lão già chở đò Kharông. Mỗi vong hồn qua sông đều phải trả tiền đò cho lão. Không tiền thì không được qua sông, đó là luật lệ bất di bất dịch của lão. Những người trần thế gặp cảnh ngộ không may khi từ giã cõi đời không có thân nhân làm đầy đủ nghi lễ mai táng, trong đó có việc phải bỏ vào miệng người chết một đồng tiền thì thật là bất hạnh. Vong hồn đó không qua được sông Xtich hoặc Akhêrông, suốt đời cứ phải đứng bên này bờ sông than khóc cho số phận hẩm hiu, bạc bẽo của mình, lang thang không nơi trú ngụ hết năm này qua năm khác, chờ đợi sự phán quyết của các quan tòa dưới âm phủ về số phận của mình. Có người lại kể hơi khác đi một chút, những vong hồn bất hạnh đó chờ đợi ở bên bờ sông Côkit chứ không phải sông Akhêrông.
Đi vào vương quốc của thần Hađex, các vong hồn còn phải đến sông Lêtê để uống một ngụm nước của con sông này cho quên đi tất cả mọi chuyện của cuộc sống ở dương gian trước kia, mọi nỗi sướng vui và mọi niềm đau khổ, mọi kỷ niệm đối với những người thân thích trong đời sống hàng ngày của mình. Không khí ở âm phủ lạnh lẽo đến ghê rợn. Bóng đen mờ mờ ảo ảo của những vong hồn vật vờ như những làn khói xám. Tiếng rên rỉ khóc than của họ về số phận bất hạnh của mình cất lên đều đều, rả rích buồn bã nhưng trầm trầm, nho nhỏ nghe như tiếng lá cây xào xạc hay tiếng các loại côn trùng kể lể rỉ rót trong đêm. Đã bước chân xuống con đò của lão Kharông ác nghiệt để đi sang bờ bên kia của con sông Akhêrông thì không còn cách gì trở lại được nữa. Lão già lái đò tính khí khắt khe và chặt chẽ, không cho ai qua đò nếu không có tiền, lại càng không cho ai qua đò rồi xin trở lại. Gác cửa âm phủ có con chó ba đầu Xerber vô cùng dữ tợn. Cổ nó, một...