chày, cậu ôm sát chiếc bình vào ngực. Tuy nhiên, chiếc bình hầu như muốn thoát ra khỏi tay cậu.
Bà Jones cảm thấy có điều gì đang xảy ra, bèn rời mắt khỏi chiếc áo đang đan và thét lên với một giọng nghẹn ngào:
- John, hảy đặt ngay chiếc bình vào chỗ của nó! Tối nay con bị làm sao thế? Con bị gì vậy?
Ngay lập tức chiếc lọ không động đậy nữa và lại trở lại một vật nghệ thuật yên lặng. Một vật bằng sành sứ như những vật khác.
- Hảy để nó lại như cũ! – Bà Jones lập lại. – Để nó lại ngay lập tức, nếu không trong một giây nó sẽ vỡ ra! Thật là mẹ không biết buổi tối nay con bị cái gì vậy!
John hết sức cẩn thận đặt chiếc bình trên lò sưởi và vẫn giữ hai tay trên đó, phòng khi chiếc bình lại bắt đầu rung rinh có thể chụp lại.
- Nó… ở sát mí lò sưởi. – Cậu lắp bắp. – Con nghĩ rằng… John lùi lại vài bước nhưng vẫn đưa mắt nhìn chiếc bình.
Bà Jones mím môi, lắc đầu, tiếp tục cúi xuống đan.
- Theo mẹ thì nó vẫn ở chỗ của nó. – Bà nói. – John, mẹ vẫn biết những lo lắng và sự cẩn thận của con. Nhưng tại sao con lại nhảy lên như vậy? Con thật giống một thằng khùng.
John đến buông mình trên ghế trước bàn viết. cậu giận giữ đá hai ba cái vào tấm thảm rồi quay sang mẹ nói với vẻ van lơn.
- Mẹ ơi giá như con có thể giải thích cho mẹ việc này… Cậu bé chợt nín lặng, sợ hãi nhìn quanh:
- Mẹ ơi, mẹ có biết… những hồn ma… John dừng lại giật nảy mình, bám hai bàn tay vào chiếc ghế, rên rỉ:
- Ồ không… không được như vậy!…
Cánh tay áo bà Jones đang đan tự nó sút chỉ từ cổ tay, nghĩa là nơi nó nằm trên mặt đất! Sợi len đưa ra…đưa ra…đi vòng quanh
bàn viết, đi qua phòng khách rồi biến mất trong hành lang tối tăm, và công việc phá hoại ma quái vẫn tiếp tục, tiếp tục không dừng, một phần tư chỉ đã tuôn ra! Chính lúc đó từ hành lang vang ra một tiếng cười gằn.
Bà Jones hỏi chồng:
- Anh có nghe gì không?
- Ồ… không!
- Em thề rằng có người nào đó đang cười gằn. Còn John, con có nghe gì không?
Vẫn giả vờ đọc say sưa quyển sách của mình, John cố đặt một chân lên sợi len. Công việc này khiến cậu chú tâm đến không nghe được tiếng cười.
- Mẹ nói gì hả mẹ? – Cậu hỏi nhỏ.
- Mẹ hỏi con có nghe một tiếng động giống như một tiếng cười gằn bị nén lại không?
- Không, thưa mẹ.
Bà Jones nói:
- Thật kỳ lạ… Và bà chăm chú đan len.
Đúng vào lúc đó, cuối cùng John cũng tìm ra được sợi len. Cậu đạp nghiến sợi len dưới chiếc giày bên phải và cảm thấy có người tỏ ra giận dữ và kéo nó với những động tác liên tục. Cậu không dám nhúc nhích nửa nhưng cũng cương quyết không bỏ cuộc. khi nói chuyện lại, John nói với một giọng rền rĩ, một giọng cao mà chính cậu củng ngạc nhiên.
- Ba ơi!
- Cái gì nữa thế?
- Con chắc chắn rằng có những hồn ma. Không sớm thì muộn hôm nay cũng… Ông Jones hầu như tức giận buông tờ báo xuống và nhìn chăm chú đứa con trai qua đôi mục kính không chút khoan nhượng, – Ba lặp lại một lần nữa với con. Những chuyện ma, hồn ma…nhảm nhí đó ba không muốn nghe nói đến nữa. Ba chán lắm rồi. Thay đề tài đi con trai.
Nhưng trong cuộc đối thoại ngắn ngủi đó John đã phạm sai lầm vì bất cẩn. Cậu đã xê dịch bàn chân của mình, ngay tức khắc sợi chỉ len tự tuột ra nhanh hơn trước. Và từ hành lang lại vang lên một tiếng cười nữa, một giọng cười vui vẻ. John vội nhìn cha mẹ. Lần này họ không có vẻ nhận ra một tiếng động bất thường nào. Bà John bỏ dụng cụ đan xuống đùi và bình tĩnh nó với chồng:
- Vào địa vị anh, em sẽ không lầm lẫn như thế. Người ta đồn hằng chục câu chuyện về căn nhà cũ kỹ của Maynard. Hình như hải tặc Râu Đen đã từng ở đó… Ông Jones phá lên cười.
- Em cứ tha hồ tin vào những câu chuyện nhảm nhí đó. Dù sao nếu hồn ma hải tặc Râu Đen vẫn còn quanh quẩn trong ngôi nhà này. Ông ta cũng nên tìm một nơi khác để ở. Những người thợ phá hủy nó đã khởi công.
Bà Jones bực dọc đan tiếp.
- Em đã biết. Em cho là công việc phá hủy nó thật đáng tiếc. Căn nhà nó đã có hàng nhiều thế kỷ. Lẽ ra phải được bảo vệ và còn phải phục chế lại nữa… John có cảm giác như việc tháo chỉ do dự và chậm lại… – … Em cho là căn nhà đó rất đáng yêu. – Bà Jones ngừng đan mơ màng nói tiếp. – Nói tóm lại nó cần gì? Chỉ một lớp sơn và khi em nghĩ đến nó có lẽ đã được Râu Đen, người hải tặc nổi danh và gan dạ nhất của mọi thời đại… Lần này việc tháo len dừng ngay tức khắc. và John hết sức kinh ngạc chứng kiến công việc trái ngược lại. Trong vài giây như có phép lạ cánh tay áo được đan lại.
Trong khi đó ông Jones lầm bầm sau tờ báo của mình:
- Râu Đen táo bạo! Em ca cẩm cái gì vậy? Chỉ là một lão già vô lại, một cái túi da đầy gió! Hình như hắn có thói quen kết râu của hắn thành những sợi ngòi thuốc súng và đốt lên để dọa thiên hạ. Joe Maynard đã cho tôi biết tất cả những gì người ta biết về hắn.
John sợ hãi nhìn cha và đưa mắt nhìn ngoài hành lang. Cậu nhận ra rằng cha mình trong phút chốc sẽ biến thành khói… – Nhưng thưa ba, – cậu kêu lên, – con cam đoan với ba…con thề với ba… Ông Jones không nghe con trai nữa, tuy vậy, trước khi tiếp tục đọc báo, ông nói.
- Và ngay cả khi con ma của ngôi nhà chết tiệt đó vẫn còn lang thang trong vùng này, nó có thề làm gì chúng ta chứ?
Ông ta vừa thốt ra từ “chứ” thì tờ báo từ tay ông bị giật ra rất mạnh từ tay ông và nhiều trang bị xé rách, trước khi rơi xuống đất nó còn bay lượn quanh đầu ông. Ông Jones há hốc mồm nhìn những mảnh báo mà ông còn nắm lại trong tay. Da mặt ông trắng bệch ra.
Tôi đoán chắc với anh đấy Sam, rằng tôi chưa từng thấy một việc như thế! – Ông Jones thét qua điện thoại.
John đã quyết định đi lên lầu ngủ, cậu len lén đi về phía hành lang vừa nói nhỏ:
- Chúc bố ngủ ngon Ông Jones gật đầu đáp lại và nói tiếp qua điện thoại:
- Phải… Phải, tờ báo của tôi! Nó đã bị giật ra khỏi tay của tôi… Phải rồi, tôi nhớ xưa kia trong nhà bà của anh cũng đã xảy ra những chuyện tương tự.
John không vội vã đi lên thang lầu, cậu không vội lên phòng để ở một mình giữa những bức tường vì thừa biết rằng Râu Đen đi lùng sục từ phòng này đến phòng khác. Cuối cùng còn muốn nghe những gì cha cậu nói với cha của Henry.
Cậu dừng lại trên nhịp nghỉ của cầu thang và lúc này bên dưới, tiếng của bố cậu vang lên:
- Phải, phải, tôi thừa nhận ra rằng cũng như ở nhà bà của anh. – Ông Jones nói tiếp. – Tôi không bao giờ tin rằng có thể xảy ra như thế. Vâng tôi hiểu… cả một chuổi phiền toái…cuối cùng chúng tôi mong rằng câu chuyện kỳ lạ này sẽ không buộc chúng tôi rời căn nhà của chúng tôi!
John thầm nghĩ: “Mà đúng thật, sẽ xảy ra điều gì nếu người ta đồn rằng nhà của mình bị ma ám? Và nếu như Râu Đen đốt nó thì sao? Ông ta dám làm lắm!” Cậu bé do dự đi về phòng ngủ của mình vừa tự hỏi một lần cuối: “Nếu như cha mình cứ tiếp tục chửi rủa Râu Đen thì sẽ xảy ra những gì nữa? Cha mình không ngừng mạt sát ông ta là đồ vô lại.” Nơi phòng của cậu ở cuối hành lang tràn ngập bóng tối. Cậu phải lấy hết can đảm để đi đến đó. Cậu run rẩy đưa bàn tay về phía nắm cửa, như nó là một gói thuốc nổ. John xoay nắm cửa lao nhanh vào căn phòng tối tăm kia, tiến nhanh đến bàn ngủ nơi có đặt một chiếc đèn. Trong khi cậu mò mẫm tìm nút bật đèn, bàn tay cậu cảm nhận một vật lạnh, cứng, có hình cong nằm trên bàn ngủ. Cậu sờ nắn dọc chiều dài của vật này bỗng dưng dừng lại. Cậu vừa nhận ra chiều cong và nhất là cái cán gươm chỉ huy của Râu Đen! Do đó, cậu vội vàng bật đèn lên.
John sợ hãi nhìn cây gươm. Rồi cậu ngẩng đầu lên quan sát gương mặt mình trong chiếc gương treo tường. Cậu thấy mình thật xanh xao! Và đôi mắt… như mắt một con thú bị truy đuổi! Như cậu tự trấn an:
“Nếu như mình nhìn thấy cây gươm của ông ta, – Cậu bé tự nhủ với một tiếng thở dài nhẹ nhõm, – mình sẽ thấy được ông ta. Có lẽ ông ta không có ở trong phòng mình, cũng không có trong nhà… có thể ông ta đã đi đến nhà của Henry …” Vừa suy luận như vậy, cậu vừa quan sát toàn bộ căn phòng của mình trong gương. Bên phải, có một chiếc ghế bành mà cậu chỉ nhìn được cái lưng ghế cao. Sau chiếc ghế bành là tủ sách và trên bức tường những tranh ảnh vẫn nguyên chỗ cũ cũng như bộ sưu tập cờ nhỏ… John an tâm xoay mình lại và trong một giây cậu lại đứng im, cố né một tiếng kêu kinh ngạc : “Ồ!” Chính lúc đó John nhìn thấy những gì mà cậu không thể phát hiện được trong gương, Râu Đen ngồi sâu trong lòng chiếc ghế bành, chân dạng ra. Cổ áo bật lên và chiếc mũ ba cạnh kèo xuống che đến tận mũi. Bộ râu dày rậm của ông trải ra trên ngực. Chỉ có đôi mặt ánh lên vẻ tinh ranh, là thấy được. Miệng ông ta cười, lộ ra hai chiếc răng vàng. Còn hai bàn tay ông rũ xuống hai bên ghế, trong đó có một bàn tay vẫn cầm chặt chai rượu rhum.
John lao đến cửa, và khi đặt tay lên nắm cửa thì một giọng nói ồm ồm mà bây giờ cậu đã quen khiến cậu như dán chặt chân tại chỗ:
- Hãy ở lại đây đi, chú bé!
Dù sao trong giọng nói không có chút gì đe dọa cả. John thở dài, buông tay nắm cửa và quay lại đối diện với hải tặc Râu Đen. Ông ta ngoác miệng ra cười. Cậu bé nghĩ: “Ông ta không có vẻ gì là một con ma cả và ông ta hành động giống như bất cứ một người bình thường nào khác. Nhưng tại sao có đôi lúc nghe được ông ta nói và đôi lúc không nghe được? Còn chỉ có Henry và mình thấy được ông ta nhỉ? Nhưng không phải lúc nào cũng thấy cả?” Cho đến lúc này cậu vẫn nghĩ rằng hồn ma là một bộ xương có mặc một tấm vải liệm, chân kéo lê một xích sắt và rên rỉ. Dĩ nhiên Râu Đen không mang hình ảnh đó.
- Chú bé không có lý do gì sợ ta cả. – Ông ta nói tiếp như căn phòng này là của ông ta. – Nào, ngồi xuống đi.
John ngồi xuống giường càng xa ông ta càng tốt. Cậu lần lượt ngạc nhiên nhìn Râu Đen rồi nhìn chiếc gương.
Lão hải tặc đẩy chiếc mũ của mình lên, nhíu mày, đưa tay vung vẩy chai rượu về phía chiếc gương một cách đầy đe dọa.
- Chiếc gương chết tiệt! – Ông ta lầu bầu. – Ta rất muốn nhìn mình trong đó, mà không có gì cả, hoàn toàn không có gí. Không một chút gợn sóng!
Ông ta đưa chai rượu lên miệng, nốc một ngụm, nhăn mặt, chùi miệng với tay và nói thêm:
- Đã…không biết bao nhiêu năm qua ta không soi gương… Ông ta ngồi im lặng một lúc. Trong khi John cố khắc phục sự bực bội của mình. Rồi ông ta đưa chai rượu lên, vừa quan sát vừa nháy mắt, rồi trút nó xuống và khi biết rằng rượu trong chai đã hết ông ta tiếc rẻ đặt nó xuống sàn nhà.
- Thành phố này không như trước nữa. – Ông ta than nhỏ. – Nhưng dù sao cũng khá hơn nhiều nơi mà ta đã từng đến đây !
Ông ta lại im lặng khoảng một phút. Râu Đen chăm chú nhìn John lo ngại. Cậu bé có cảm giác mình giống như một con côn trùng bị quan sát qua kính hiển vi bởi một kẻ tâm thần, cuối cùng Râu Đen nói tiếp:
- Khi nào chú bé sẽ đuổi ta đi khỏi đây hả? Chú bé biết rất rõ rằng phép của ta đã quá hạn từ rất lâu. Nếu ta đi trễ, ta sẽ có cả đống rắc rối… Ông ta ngồi im lặng một lúc, hai cùi chỏ chống lên đầu gối. Rồi nói:
- Chú bé có định đuổi ta không? Nói đi!
John đáp với một giọng mà nó nghĩ xuất phát từ một khoảng cách khá xa:
- Sự… sự thật, thưa ngài thuyền trưởng là cháu không biết phải làm thế nào để đuổi ông… Với một ánh nhìn hoài nghi, Râu Đen đứng lên đi tới đi lui trong phòng và lầu bầu:
- Như vậy ta kẹt cứng rồi!
Ông ta dừng lại nhìn John với một khuôn mặt rạng rỡ.
- Chú bé đừng sợ, đừng sợ tí nào cả. Đúng vậy ta đã bỏ neo cạnh quán “Đầu Heo Rừng”. Nhưng không hại cho chú bé, không nguy hiểm đâu! Và cả khi ta không bao giờ trở lại nơi… ta đã từ đó đến đây… Ông ta bật cười lớn đến chảy nước mắt mà ông ta phải lau bằng một chiếc khăn tay cũ kỹ và dơ bẩn. John chờ đợi nghe tiếng chân nhanh chóng của cha mẹ đang leo lên cầu thang. Cậu nghĩ rằng tất cả mọi người ở những nhà bên cạnh đều đã nghe tiếng cười quá to như thuốc súng đang nổ. Cho nên cậu canh chừng cánh cửa, chắc chắn nó sắp bật mở ra… Râu Đen nhét chiếc khăn vào túi, và dùng ngón tay trỏ to lớn chỉ về phía cậu bé:
- Cháu thề có chắc, hoàn toàn chắc chắn không biết cách đuổi ta đi không?
- Cháu thề với ông mà, thuyền trưởng.
Hải tặc Râu Đen chấp hai tay ra sau lưng, đi đến cửa sổ, nhìn ra khu vườn và không quay lại, ông hỏi với một vẻ ma mãnh vừa nhấn mạnh từng chữ:
- Và ngay cả nếu như cháu biết… – Ông quay phắt lại đối diện với John . – Cháu có đuổi ta đi không?
- Ô! Không, thưa thuyền trưởng… không bao giờ! Cháu chỉ sẽ làm những gì ông yêu cầu.
Râu Đen hài lòng thở dài, gần giống như một tiếng gầm gừ, và một cái nhăn mặt chiến thắng khiến nét mặt ông rạng rỡ hơn.
- John, cháu thật đáng yêu. Ta sẽ không bao giờ quên những gì cháu đã làm cho lão Râu Đen này. Từ hôm nay, cháu và ta, cháu John bé bỏng của ta, chúng ta sẽ đồng lòng cùng nhau đi trên biển.
Ông ta quay trở lại tấm gương, hay đúng hơn ông ta lê bước chân nặng nể đến đó. Ông ta đứng trước gương một lúc, nhíu mày, khuôn mặt căng thẳng. Khi quay lại, ông ta có vẻ của một con chó chăn cừu đã đánh mất cả đàn súc vật của mình.
- Cháu có nhận ra không John! Thuyền trưởng Râu Đen vừa ghé bến, xuống tàu và không ai có thể nhìn thấy trừ cháu và Henry!
Ông ta nhìn lần cuối vào tấm gương với một chút thất vọng.
- Khi ta nghĩ đến tất cả những cô gái đẹp mà ta gặp ngoài đường! Ta chào họ. Họ không đáp lại. Trời ơi! Họ không thấy ta. – Và với một tiếng thở dài buồn bã. – Điều này là chấm dứt tất cả.
Ông ta nặng nề bước đến ghế bành buông mình xuống ngồi.
John bắt đầu cảm thấy thương hại Râu Đen.
- Thật vậy sao thưa thuyền trưởng? – Cậu lắp bắp nói. – Cháu thật tiếc… Rồi như nảy ra một sáng kiến, cậu nói tiếp:
- Tại sao ông không thử một lần nữa. Có lẽ sẽ… Râu Đen cắt ngang lời John một cách mãnh liệt:
- Không bao giờ John! Không bao giờ! Trước khi ta lại thử nhìn thấy ta trong một tấm gương… Hai tay nâng cằm, ông ta có vẻ như đang đắm chìm trong một suy nghĩ rất sâu. Bỗng, ông ngẩng đầu lên và lo lắng hỏi:
- Mụ phù thủy, John, là ai vậy? Phải mụ phù thủy mà cháu đã sử dụng tro để viết những dấu huyền bí không?
- Tro? – John kêu lên. – Cháu không sử dụng tro. Cháu đã dùng bột.
Râu Đen bật dậy:
- Bột ư? Bột làm bánh mì phải không?
- Thưa thuyền trưởng đúng ạ!
Râu Đen rên lên nho nhỏ, ông ta lại buông mình xuống, tựa vào lưng ghế và nhìn lên trần nhà như phân bua với trời.
- Bột! Thằng bé đã sử dụng bột!
Bộ râu của ông phủ xuống ngực, đôi mắt nhìn chăm chăm vào John với một sự ngạc nhiên và hoài nghi.
- Cháu có biết rằng phải sử dụng tro của một phù thủy đã bị thiêu sống trên giàn hỏa không?
John bối rối cúi đầu và giả vờ nhìn ngắm móng tay của mình.
- Không… thưa thuyền trưởng . – Cậu lắp bắp đáp.
- Ta bắt đầu hiểu tại sao những cô gái không có được thấy ta và đáp lại cái chào của ta. Và để cho Henry và cháu có thể nhìn thấy ta, cháu không thể tưởng tượng những cố gắng mà ta phải làm đâu.
Ông đứng lên và chắp tay ra sau lưng, lại bắt đầu đi đi lại lại trong phòng.
- Cháu không tìm được tro của phù thủy, cho là như vậy. Tại sao cháu không tìm ra tro của hai con cóc hay hai con rắn, đốt cháy tự nhiên khi mặt trăng đã khuất?
Ông ta dừng lại gãi cái đầu nằm dưới chiếc mũ ba cạnh.
- Không, làm vậy cũng không được. Khi muốn mọi người trông thấy, phải dùng tro của một mụ phù thủy… Ông ta lại đắm chìm trong suy nghĩ, rồi lại đối diện với John.
- Phải có một mụ phù thủy quanh đây, cháu có biết mụ ta ở đâu không? Chúng ta có thể… – Ồ! Không, thưa thuyền trưởng, không!
John lắc mạnh đầu đến nỗi Râu Đen không thể bắt chước cậu bé và bảo:
- Thật vậy sao, không có phù thủy ở Godolphin sao?
Ông ta quay lưng, bước đi, rồi quay lại vừa ấn ngón áp út của bàn tay trái trong lỗ tai đầy lông lá.
- Cháu có chắc không, John, rằng không có một phù thủy nào ở Godolphin?
John lắc mạnh đầu:
- Hoàn toàn chắc chắn, thưa thuyền trưởng!
Râu Đen nhíu mày.
- Làm sao một thành phố như thế này lại có thể không có một phủ thủy được? – Ông ta lầm bầm nói khi buông mình vào chiếc ghế bành. – Khi người ta bị phong thấp, sốt hay nổi mụn nhọt thì ra sao?
Căn phòng im lặng một lúc lâu. John vả hải tặc Râu Đen có vẻ cùng một ý kiến. Ông ta ngẩng đầu lên.
- Này John , câu chuyện về quán rượu “Đầu Heo Rừng” của ta là như thế nào vậy? Người ta muốn phá hủy nó phải không?
- Để xây dựng một trạm xăng dầu, thưa thuyền trưởng.
- Một trạm xăng dầu? Lại một phát minh loại gì vậy?
- Một trạm xăng dầu là nơi các người lái xe đến mua xăng dầu và tất cả những gì họ cần cho xe của mình.
- Cháu nói về những loại xe gây ồn ào kinh khủng và tự động đi một mình, mà không cần ngựa kéo phải không?
- Phải, thưa thuyền trưởng.
Râu tóc của Râu Đen dựng đứng lên, và miệng ông tỏ ra vô cùng khinh bỉ.
- Và để làm cái việc đó mà người ta nhẫn tâm vất xuống đất một quán rượu đẹp nhất nước Mỹ sao?
- Ồ … phải, thưa thuyền trưởng.
Râu Đen đưa tay áo lên lau mũi.
- Chắc chắn những người đó điên rồi.
Ông ngừng lại, nhăn nhó hỏi:
- Cái gã tự cho mình là chủ quán rượu “Đầu Heo Rừng” tên gì nhỉ?
John do dự trước khi trả lời:
- Đó là… ông Maynard, thưa thuyền trưởng.
Râu Đen bật đứng lên thật mạnh mẽ khiến cho John có cảm giác như bị bắn về góc kia của chiếc giường, do không khí bị dịch chuyển mạnh. Rồi lão hãi tặc tóm lấy thanh gươm của mình trên bàn ngủ và đi về phía cậu bé:
- Cháu đã nói là Maynard phải không? – Ông ta gầm lên.
John mấp máy miệng nhưng không thốt lên thành tiếng.
- Hãy nói, nói đi nào! – Lão hải tặc gắt lên. – Cháu nói đúng là Maynard phải không?
- Pha… phải, thưa thuyền trưởng.
- Sao? Tên vô lại thấp hèn, bất lương, tên khốn kiếp, tên thủy thủ nước ngọt đó! – Râu Đen hét lên trong lúc đi quanh căn phòng như một con sư tử bị nhốt trong chuồng. – Maynard, chủ nhân quán rượu “Đầu Heo Rừng” của ta! Ngươi sẽ thấy những gì người ta sẽ thấy! Với hai bàn tay không của ta, vũ khí của ta! Phải, với hai bàn tay của ta, chỉ với hai bàn tay của ta. Ta sẽ khiến tất cả những ai ngáng đường ta sẽ ăn đất cát, bụi bặm và thành thịt băm!
Ông ta dừng lại, ném một ánh nhìn rực lửa về phía John.
- Chỉ là ta, cháu có nghe không, ta đã là một con cá mập dữ dội, một con ác thú của biển cả!
Bỗng nhiên, trước con mắt ngạc nhiên vô cùng của John, ông ta quay đi, cúi đầu...