khối nhầy bóng, hai bên có hai bím tóc rủ dài xuống vai. Trên bộ quần áo của ông còn vướng vào nhánh tảo. Và trên mũ ba góc của Râu Đen là chiếc lông đà điểu mà John đã cắm trên chiếc khăn đội đầu của cậu biểu diễn thông linh. Ông ta nhai bắp rang rau ráu. Sau vài bụm bắp ông ta bị nấc, tiếng nấc ồn ào và to như còi tàu. Ông ta đẩy cái mũ ba góc của mình ra sau gáy và lại thò tay lấy bắp. Henry sợ túi bắp rớt xuống nên cố dùng hết sức siết chặt lấy nó.
Thuyền trưởng Râu Đen, tung bắp rang trong lòng bàn tay quan sát, ném nó vào miệng, nhai nuốt, tạo ra những nít với cái lưỡi, sau đó xỉa răng bằng móng tay út. Rồi vẫn giữ ngón tay trong miệng, ông tuyên bố một cách đầy uy quyền:
- Món bắp rang bơ này không bằng bắp nướng của người da đỏ.
Chỉ vài búng tay ông phủi những vụn bắp rải rác trên bộ râu và quần áo. Trên quần áo của ông chỉ có bộ nút áo bằng đồng nằm hai hàng dài là bóng loáng và sạch sẽ. Vì chiếc quần bó ống của ông đầy mở và đôi ủng lỗ chỗ các vết nứt.
Một viên cảnh sát đi tuần trong công viên nói với hai cậu bé khi đi ngang qua trước mặt chúng với một giọng nhỏ nhẹ phóng khoáng :
- Xin chào! Một ngày vui vẻ hả?
Và ông ta tiếp tục đi tuần.
Henry ngồi im, mắt nhìn thẳng về phía trước. John, há hốc mồm, vừa nhìn theo viên cảnh sát vừa nghĩ: “Thật là kỳ diệu, ông ta không thấy hải tặc Râu Đen! Có lẽ
là ông ta không thể thấy được!” Cậu bé quay sang Henry, đang ngồi im như pho tượng, chỉ trừ trái cổ chạy lên chạy xuống không ngừng.
- Trời đấy quỷ thần ơi! – Râu Đen chợt la to. – Ta luôn luôn bảo rằng không có gì khiến người ta khát nước bằng ăn bắp rang cả!
Nói xong ông ta thọc tay vào trong gói bắp rang. Sau khi nhai một cách hăng hái và nấc lên, ông ta rút từ thắt lưng ra một con dao găm, sử dụng nó như một cây tăm xỉa răng. Rồi ông ta chợt cúi xuống Henry lấy cán dao găm thọc vào sườn cậu bé, rồi nháy mắt và nói oang oang:
- Con trai, con có biết ở nơi nào mà con sói biển già có thể tìm được một bình rượu rhum không? Ta chưa uống một giọt rượu nào từ khi chạm trán với cái tên khốn kiếp Rober Maynard này.
Đồng thời, ông đưa ngón tay qua cái vai chỉ vào tượng vị sĩ quan sau lưng ông.
- Chuyện này không phải mới hôm qua đâu, vì nó xảy ra vào năm 1718. – Ông ta nói tiếp. – Ta rất muốn cắt cổ hắn và điều này suýt chút nữa thì đã xảy ra! Thật không may, một tên thuộc hạ của hắn đã tấn công vào sườn của ta. Và do đó… Ông ta lại thọc tay vào túi bắp rang.
- Ta thấy hai chú bé có vẻ thông minh đấy. Làng Godolphin đã thay đổi rất nhiều. Ta có hơi lạc lõng ở đây. Nào, trả lời ta đi chứ? Ta có thể tìm được rượu ở đâu?
Ông ta nghiêng mình về phía trước, đặt hai cùi chỏ lên đầu gối, quay cái đầu to tướng sang John, nhìn vào mắt cậu và hỏi, gương mặt thô kệch nở ra một nụ cười tươi.
- Sao vậy hai chú bé? Mèo ăn mất lưỡi rồi sao?
John khá an tâm vì nụ cười của Râu Đen, nên hầu như quên rằng cậu đang đứng trước mặt hồn ma.
- Ngài… ngài không thể mua được rượu rum ở làng Godolphin, thưa ngài thuyền trưởng. – Cậu lắp bắp trả lời. – Ở đây, cấm uống rượu.
Râu Đen bật dậy và cây gươm chỉ huy của ông chạm vào cạnh chiếc băng đá tạo ra một tiếng kêu khá ghê rợn. Henry làm rơi túi khiến bắp rang đổ ra mặt đất.
- Cấm uống rượu! – Viên thuyền trưởng gầm lên. – Cái trò quái quỷ gì nữa đây?
Đôi mắt tồi sầm lại, ông ta nhìn con đường vào khu công viên, rồi thở dài. Ông ta đưa một bàn tay vào trong áo, vừa gãi vào sườn và hỏi:
- Có lẽ trời không mưa từ lâu rồi, nên người ta không có quyền mua rượu rum?
- Ô! Không, thưa ngài thuyền trưởng – John nói. – Cấm uống rượu có nghĩa là luật pháp cũng cấm bán rượu trong vùng Godolphin này.
Hải tặc Râu Đen chậm chạp quay lưng lại chiếc ghế dài, gãi gãi cằm qua đám râu rậm và kêu lớn:
- Không thể mua rượu trong vùng Godolphin này, thật là quá đáng đối với ta.
Ông ta rơi vào chính suy nghĩ của mình một lúc. Bỗng ông ta đứng lên, bước một cách bực bội trước mặt hai đứa trẻ. Cả hai đứa không dám cử động. Vừa đi ông vừa gãi lưng, gầm gừ như một con gấu.
Thình lình Râu Đen dừng lại, búng ngón tay.
- Nghe ta nói này, hai chú bé! Ta sẵn sàng cược rằng cái tên quỷ quái Robert Maynard đã nhúng tay vào tất cả những vụ này để buôn bán rượu, hắn chắc chắn biết rất rõ, chính hắn! Cũng vì thói quen kiếm tiền, hắn đã đánh đắm những thủy thủ lương thiện như ta!
Ông ta lại đi một lúc, suy nghĩ, mày nhíu lại. Bỗng vẻ mặt ông thay đổi, rạng rỡ hơn.
- Ta cược cái đầu ta nếu như trong năm phút mà không tìm ra nổi một chai rượu rhum, các chàng trai trẻ của ta ạ!
Ông ném một cái nhìn sang phải, sang trái, rồi đến gần hai đứa trẻ, thổi vào mặt chúng hơi thở đầy mùi tỏi và lầm bầm qua kẽ răng.
- Nơi ấy… là cái quán rượu của ta, quán “ Đầu Heo Rừng”!
Ông ta nhăn nhó đứng thẳng lên trong khi John và Henry lo lắng nhìn nhau.
- Bây giờ, hai chàng trai trẻ của ta, hãy đi tìm một gói bắp rang nữa. – Ông ta nói tiếp.
Trông thấy hai đứa trẻ không nhúc nhích, Râu Đen nhấn mạnh bằng một giọng mất dần sự kiên nhẫn:
- Nào, bọn bây ngủ hả? Người bán cho bọn bây gói bắp rang này ở đâu?
Râu Đen đến gần quan sát John và Henry như hai loài cá lạ, và như thay đổi tính khí ông ta bỗng bật cười.
- Thật là buồn cười! Không phải đây là lần đầu tiên hải tặc Râu Đen khiến cho người ta sợ đến hóa câm. Vậy thì, hai chú bé, nếu như thế ta sẽ tự tìm ra người bán hàng đáng thương đó.
Ông ta quay lại đánh hơi trong không khí và mỉm cười hài lòng kéo chiếc quần bó ống lên rồi đủng đỉnh đi về phía có hương thơm của bắp rang bơ bay đến mũi. Sau khi do dự một lúc, hai đứa trẻ bật dậy, không quan tâm đến đám cỏ mà chúng vừa giẫm lên, chúng chạy vội đến nấp sau lưng bức tượng Robert Maynard. Chúng im lặng, hồi hộp không dám cử động. Cuối cùng John nói qua hơi thở:
- Chúng ta không thể ở đây mãi được!
Hai cậu bé từ từ đứng thẳng lên, len lỏi nhìn qua đôi chân vạm vỡ của kẻ thù không đội trời chung của Râu Đen.
- Henry, cậu có thấy ông ta không? – John thì thầm. – Còn tớ không thấy gì cả. Theo cậu ông ta đi đâu?
Henry đáp, đôi mắt cậu tròn xoe gần bằng hạt nho:
- Tớ chỉ nhận ra ông ta một cách mơ hồ. Ông ta vừa biến mất!
Ông đứng lặng một lúc. Đôi mày nhíu lại, đôi mắt hầu như khép chặt, ông vừa suy nghĩ vừa chà mạnh chiếc mũi với nắm tay. Ông bỗng kéo chiếc quần bó ống lên và bước nhẹ nhàng, tuy nhiên vẫn làm cho sàn nhà kêu lên răng rắc. Ông đi qua gian phòng nằm ở đầu kia của gian phòng chính.
- Có lẽ là ở đây! – Râu Đen nói nhỏ.
Ông nhìn sang phải rồi nhìn sang trái, đưa mũi giày đẩy những đống vôi vữa thạch cao và gỗ vụn sang một bên.
- Phải chính là ở đây. – Ông lặp lại.
Râu Đen ngồi xuống, rút kiếm ra và dùng nó bẩy một tấm ván sàn lên. Mặc cho những chiếc đinh kêu lên phản đối, cuối cùng ông tóm được một mảnh ván, kéo lên và ném ra xa. Ông nằm xuống, thọc một tay trong một lỗ hổng và sau một lúc mò mẫm, ông kéo lên một chai rượu bịt kín bám đầy bụi với nụ cười chiến thắng.
Sau đó ông ngồi một nơi xa hơn trong một vòng ánh sáng hẹp của ánh trăng, khi mở được nút chai, ông đưa nó lên vả kêu lớn với một cái nhăn mặt đầy đe dọa:
- Chúc sức khỏe mày Robert Maynard, tên đạo đức giả bẩn thỉu! Kẻ phản bội gớm ghiếc, không xứng mang danh thủy thủ! Chúc sức khỏe của mày và sức khỏe của cái gọi là cấm rượu buồn cười của mày!
Ban đầu còn chạy, sau đó đi càng lúc càng chậm lại về phía công viên, John và Henry tránh xa quán rượu càng nhanh càng tốt. Công viên nằm không xa bờ biển. Nó mang tên công viên Maynard. Trên đường đi, chúng quan sát nơi mà chính chúng tạo khi bất cẩn đọc lên câu bùa chú đã viết trên tấm da thuộc và chúng tự đặt câu hỏi này: “Làm thế nào thoát được?” Mặc dù hết sức cố gắng chúng cũng không tìm ra một giải pháp nào thỏa đáng. Không, không thể có cách nào thoát được mà không quá nhiều thiệt hại.
Chúng đo lường sức mạnh thật sự của hải tặc Râu Đen. John vẫn giữ rõ ràng cảm giác lạnh lẽo mà cậu cảm nhận được trên chiếc băng đá khi cây gươm của Râu Đen chạm phải chân cậu.
- Đây chắc chắn là một hồn ma rất nguy hiểm! – John nó với Henry. – Cũng hơi giống như chúng ta đã tái sinh một loại quỷ nhập tràng Frankenstein!
Và khi trông thấy Henry cười giòn giã, John nói thêm:
- Sự khác biệt là Frankenstein chỉ có trong phim ảnh. Trong khi Râu Đen là một việc khác… Trong công viên, hai cậu bé tránh những chiếc băng đá nơi chứng kiến cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng với hải tặc Râu Đen. Chúng chọn một chiếc băng khác cạnh người bán bắp rang. Ở nơi đầy ánh sáng này của đường phố, chúng cảm thấy tương đối an toàn. Cả hai buông mình xuống băng đá, thọc sâu tay vào túi, duỗi chân ra ngồi im lặng một lúc. Rồi Henry chợt hỏi:
- Cậu còn muốn ăn bắp rang bơ nữa không?
John buồn bực nhìn về phía người bán bắp:
- Không…, tớ không đói.
- Tớ cũng vậy.
- Cậu nghĩ ông ta đã đi chưa?
- Ai cơ?
John xẵng giọng hỏi lại:
- Cậu có thể đặt cho tớ câu hỏi đó sao? Cậu thừa biết tớ muốn hỏi ai rồi mà!
- Phải, phải tớ hiểu. chắc chắn ông ta đã đi rồi,… Ít ra, tớ cũng mong là vậy!
Hai đứa trẻ lại im lặng ngồi đó. Bỗng John kéo tay Henry:
- Cậu có thấy không? Đằng kia kìa. Cái nắp cống ấy! Nó vừa động đậy! Phải, cái cống gần lề đường. Cậu có chú ý đến nó không?
Henry quay về phía bạn cậu đã chỉ:
- Không, tớ không thấy… Nhưng thật vậy John, nó động đậy, nó động đậy!
Cả hai bật dậy. John vẫn siết chặt cánh tay của Henry. Cái nắp tròn, phát ra những tiếng vang liên tục không ngừng. Rồi nó rời ra, bốc lên độ một mét rồi rơi xuống mặt đất cách đó một đoạn. Ở đó nó bắt đầu nghiêng ngả tạo ra những tiếng lắc cắc như một đồng tiền khổng lồ.
Người bán bắp cho rằng mình bị đe dọa nên bỏ quầy hàng chạy trốn. John và Henry khựng lại tại chỗ, mặc dù chúng củng muốn bỏ chạy. Hai cậu bé trông thấy một cánh tay lông lá khổng lồ trồi lên từ miệng cống. Bàn tay này siết chặt một cái chai và cẩn thận đặt lên lề đường. Một bàn tay xuất hiện cùng với một gương mặt đầy râu ria… nhưng hai đứa trẻ đã nhanh chân chạy thoát.
- Tôi nghỉ rằng trong cống đã xảy ra một vụ nổ do thoát hơi gas. – Người bán bắp giải thích cho những kẻ hiếu kỳ đang vây quanh.
Hiển nhiên, không ai nhìn thấy kẻ đã gây ra hiện tượng này. Không ai nghe được ông ta lầu bầu cái gì khi chui ra từ ống cống. Râu Đen lấy lại cái chai của mình cúi xuống miệng cống bỏ ngỏ và lầu bầu.
- Thật là lạ, người ta đục lỗ khắp nơi trong thành phố… có lẽ để trốn tránh khi bị bắt gặp đang uống rượu rhum. Ta rất muốn biết những kẻ đã cấm họ giải khát một cách im lặng.
Khi trông thấy đám người hiếu kỳ, ông ta cười chào thân thiện bằng cách ngả mũ quét chiếc lông đà điểu lên mặt đất. “Chào kiểu này khiến cho tên thống đốc vô lại Eden xanh như một nắm rong biển”. – Râu Đen nghỉ thầm.
Ông ta lại tiếp tục đi trên đường Grand Rue, vừa tiếp tục chào bên phải rồi bên trái đường. Đồng thời một tay vẫn cầm chai rượu, một tay cầm dao găm đánh nhịp, ông ta ồm ồm hát:
Ngọn gió êm dịu, ngọn gió yên lành.
Cứ thổi đi, cứ thổi đi nhé!
Con tàu Reine Anne tuyệt vời của ta.
Ngọn gió êm dịu, ngọn gió yên lành.
Vừa hát ông ta đi qua cách hai đứa trẻ vài bứơc. Chúng đang nấp giữa hai chiếc xe. Khi ông ta đã ở khá xa, John nói khẽ với Henry:
- Tớ vẩn chưa hiểu tại sao, chỉ có hai chúng ta nghe và trông thấy được ông ta.
- Tớ củng không hiểu nốt. – Henry đáp trong khi vẫn đưa mắt theo dõi bóng dáng to lớn của Hải Tặc Râu Đen. – Điều chắc chắn là tớ đã bảo với cậu, lẽ ra cậu phải trả mảnh da thiệt chết tiệt đó về chỗ cũ. Thay vì làm như vậy cậu đã lặp đi lặp lại rằng những hồn ma không bao giờ có thật, rằng đó chỉ là trò bịp.Vậy thì cậu hãy nhìn ông ta đang đi kìa. Ông ta có vẻ không tồi đấy chứ!
John đã biết rằng thật sự tất cả công việc này là do lỗi của cậu và cậu cảm thấy trách nhiệm đè lên vai cậu nặng như chì. Cậu nhớ lại mảnh da thuộc, John đã không quên một câu nào hoàn chỉnh: “Rằng những lời thần chú của ta khiến cho sự nguyền rủa sẽ rơi trên…” và trong khi cậu đưa mắt theo dõi cái bóng đồ sộ đã đi xa của Râu Đen có cảm giác gánh nặng ngày mỗi đè xuống trên đôi vai của cậu nhiều hơn.
Đêm tối và cành lá của những than cây to phủ xuống đã khiến con đường Ormes trở thành một đường hầm vắng vẻ và im lìm, tuy hai bên có nhà và cửa sổ được chiếu sang. Trong những căn nhà này người ta đi lại, xem truyền hình hoặc đọc báo. Những con côn trùng, dơi và bươm bướm bay và chao vào ánh đèn đường. Giữa một bồn cỏ, một vòi tưới xoay tít và phun ra nhiều đám mưa bụi.
John bổng dừng lại trước cổng nhà mình, nói với Henry:
- Hẹn gặp lại cậu vào sang ngày mai, Henry!
- Ờ… phải, hẹn sang mai gặp lại John. – Henry nói.
Cậu bé quan sát con đường từ phải sang trái, rồi nói thêm:
- Tớ mong rằng “người mà cậu biết” sẽ không xuất hiện nữa!
- Tớ cũng mong là như vậy!
John leo lên những bậc thềm nhà mình. tới đó cậu chợt dừng lại, gọi Henry đã sải những bước dài đến căn nhà bên cạnh, John muốn hỏi bạn cho mình tá túc qua đêm.
- Chuyện gì vậy? – Henry hỏi.
Nhưng John đã thay đổi ý kiến.
- Ồ, không có gì. Không quan trọng đâu… Cậu bé lại tiếp tục bước lên thềm nhà và cửa của hai căn nhà hầu như được mở ra và đóng lại cùng một lúc.
Trong bóng tối, cách đó khoảng ba mươi mét, Râu Đen tựa lưng vào thân một cây du, chân bắt chéo lại, mỉm cười, xỉa răng với những móng tay út.
John bước vào phòng khách. Ông Jones đã tháo dày nằm trên chiếc tràng kỷ cạnh lò sưởi. từ sau tờ báo khói của ống đếu bốc cao lên chiếc đèn chụp đang soi sáng ông. Bà Jones đang đan và một tay áo đã đan xong thòng từ đầu gối xuống sàn nhà. Phía trên lò sưởi là chiếc bình sứ mà bà rất hảnh diện vì đã có nó. Bà đưa mắt nhìn lên:
- Ồ! John, con làm mẹ sợ quá! Mẹ không nghe tiếng con đi vào nhà Ông Jones hạ tờ báo xuống, lấy ống điếu ra và nói:
- John, con không thấy là con đã đi chơi về quá muộn sao?
- Nhưng, thưa cha, còn sớm mà!
Ông Jones liếc nhìn chiếc đồng hồ cũ kĩ treo ở góc phòng.
- Còn cha thì cho là đã quá muộn rồi! Con quên rằng sáng mai còn phải đi học sao?
Ông tiếp tục đọc báo, vợ ông hỏi:
- John, cả buổi chiều con đi đâu?
Cậu bé sợ hãi nhìn về phía hành lang. Dường như là cậu nghe tiếng cửa ra vào nhà mở ra và cậu phải mất vài giay để bình thản lại.
- Mẹ đã hỏi con chuyện gì vậy?
Bà Jones đặt chiếc áo len đan dở xuống, chăm chăm nhìn vào mặt đứa con trai mình.
- Mẹ đã hỏi con đi đâu suốt cả buổi chiều?
- Con đi chơi với Henry. Cả hai chúng con đi đến công viên Maynard. Rồi còn đi nhiều nơi khác nữa… Cả gian phòng khách chỉ được soi sáng bằng hai ngọn đèn có chụp nên John có cảm giác rằng gian phòng này quá tối. John vừa nhìn vào các góc tối vừa bước đến, ấn vào một cái nút điện. Chùm đèn thủy tinh thòng xuống giữa phòng bật sáng lên và gian phòng khách được chiếu sáng.
- John, tắt đèn chùm đi! – Mẹ John ra lệnh. – Chúng ta không cần đến nó. Nếu như con biết rằng tháng tiền điện của nhà mình phải trả là bao nhiêu… Bà lại chăm chú nhìn đứa con trai mình:
- Con xanh xao quá! Con có bệnh không?
John vội tắt đèn chùm.
- Không thưa mẹ! Trái lại con cảm thấy rất khỏe.
- Vậy thì đừng đi lung tung nữa! Con đã làm bài xong chưa?
- Dạ xong… – Lúc này con nên lấy một quyển sách mà đọc… Trên bàn làm việc đã có sẳn một quyển sách. John đã bắt đầu đọc. Cậu ngồi xuống cố gắng đọc nhưng vô ích thôi. Cậu không thể không canh chừng những góc tối nhất của căn phòng. Cậu không thể quên được khi còn ở công viên, Râu Đen đã lần lượt biến mất, tái xuất hiện và còn cánh cửa ra vào, cậu đã chắc chắn nghe nó rít lên.
- Mẹ, con có thể xem truyền hình được không?
- Không! Bà Jones ngẩng đầu lên đáp. – Con đã xem quá nhiều rồi, vả lại nó làm phiền cha con John lại cầm sách lên đọc, và cố hiểu những gì cậu đọc được. Dĩ nhiên cậu không có việc gì để làm! Cậu lấy một cây viết chì và gặm đầu viết. Chiếc đồng hồ điểm những tiếng gõ nhịp, từng giây như vọng ra từ đó.
- Ba ơi… – Gì vậy?
Một đám khói bốc lên trên tờ báo.
- Ba có biết thế nào là một hồn ma hung dữ không?
- Một cái gì?
- Một hồn ma hung dữ.
Tờ báo được hạ xuống.
- Con hỏi một hồn ma hung dữ là gì phải không?
Bà Jones không ngừng đan xen vào.
- Anh biết rõ một hồn ma hung dữ là gì không? – Bà nói với chồng mình. – Em nghĩ rằng anh không thể quên nhửng gì Sam Olerteuffer đã kể cho chúng ta nghe về hồn ma hung dữ, một hồn ma ở nhà của bà ông ta, những hồn ma đó dặc biệt ngu xuẩn. Chúng chỉ làm những chuyện điên rồ. Hình như hồn ma ở trong nhà bà của Sam có tật phá chiếc giường.
- Nó chỉ tháo bốn cái khối tròn bằng đồng. – John nói rõ thêm.
Ông Jones gõ cái tẩu vào vách lò sưởi để trút tàn thuốc ra. Ông bảo vợ.
- Alice, anh mong rằng em không tin một chút gì của câu chuyện ngu xuẩn này.
- Em không biết phải tin những chuyện gì. – bà Jones đáp. – Sam đã tỏ ra rất xác định. nếu như ông ta nói sự thật. Em nghĩ rằng ông ta phải sợ lắm khi trong nhà có xảy ra một chuyện như thế.
- Toàn những chuyện ngu xuẩn! – Ông Jones lập lại. – Đừng, nghĩ đến chuyện đó nữa Alice!
- Nhưng, thưa cha. – John nhấn mạnh. – Dù sao cũng có thể thật nếu như… Ông Jones không nén nỗi bực dọc, mở một trang báo khác.
- Đừng nói thêm những chuyện điên rồ, John. đọc sách của con đi, còn tốt hơn.
- Nhưng thưa ba, con đoan chắc với ba…chính con, con đã thấy… Cậu bé chợt im lặng, đôi mắt cậu mở to nhìn chăm chăm trên lò sưởi, chiếc bình quý giá của mẹ nó, bị một sức mạnh vô hình đẩy đi, di chuyển từng phân một. và không bao lâu nó đi đến cạnh lò sưởi… Vẫn chăm chú đọc báo, ông Jones hờ hững hỏi John:
- Con đã cho rằng con thấy… con đã trông thấy gì vậy John?
John kinh hãi im lặng một hồi lâu. Cậư bé nhìn cha mẹ, cả hai hình như hoàn toàn không ý thức tai họa sắp xảy ra.
- Nào, John con đã trông thấy gì? – Ông Jones nhấn mạnh.
- Ồ, chẳng có gì cả, thưa ba! – Đứa trẻ thì thầm vừa cố ý dừng lên và lén đi đến cạnh lò sưởi.
Chiếc bình lúc này đã tự động di chuyển ra đến mép lò sưởi, đúng vào lúc nó đưa mình lắc lư ra khoảng trống, John đã kịp tóm lấy nó như người ta tóm lấy một quả bóng...