ai bàn cãi gì cả.
John hầu như muốn làm theo lời bạn, khi cậu bỗng có một sáng kiến. Cậu nhìn nhanh về phía độ dốc đáng chóng mặt của chiếc cầu thang.
- Khoan đã, Henry, nhìn kìa!
Henry đã bắt đầu đi lên cầu thang bỗng quay lại.
- Cái gì vậy?
- Chính lúc cậu la lên tớ đã định nói với cậu. Nhìn xuống dưới kia đi!
- Đâu? – Henry vừa nói vừa chỉ xuống bậc thang. – Tớ chẳng thấy gì cả.
- Kia kìa. – John nhấn mạnh, vừa che ánh nến vừa hất hàm chỉ chân cầu thang.
Henry vươn cổ ra.
- Tớ không hiểu, John… Hình như trong cái hầm này có ánh sáng. Làm sao mà… – Tớ không biết. Theo cậu chúng ta đang ở độ sâu bao nhiêu hả?
Không chờ Henry trả lời, John cương quyết lao nhanh về phía trước.
Henry kêu to:
- Đừng bỏ đi như thế! Cậu mang nến theo, tớ phải thấy chỗ đặt chân để đi chứ!
Mặc dù không còn cần đến nến Henry vẫn thận trọng khi bắt đầu xuống cầu thang lại. Đồng thời cậu cũng tiếp tục phản đối “những kẻ có nến mà
bỏ rơi bạn bè trong bóng tối”. Cậu nghe tiếng bước chân của John bỗng nhiên thay đổi nhịp điệu, chuyển sang một chuỗi tiếng trượt để rồi cuối cùng là một tiếng kêu cố nén lại.
Henry há hốc mồm một lúc rối thì thầm hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Bây giờ trừ tiếng nước nhỏ giọt và tiếng còi xe cấp cứu từ xa, cậu không còn nghe gì nữa cả. Bỗng cậu thét lên và cử động mạnh.
- John! John!
Để đi nhanh hơn, cậu tóm bàn tay phải vào cây trụ giữa cầu thang và hầu như buông mình trượt xuống dưới sâu.
John cũng có lẽ đang chờ cậu. Tiếng báo động vang dội các bức tường:
- Coi chừng các bậc thang!
Nhưng đã quá muộn, Henry, thật sự đã lao vào căn hầm bí mật của hải tặc Râu Đen. Cậu va mạnh vào John vì không kịp né sang một bên nên hai đứa trẻ cùng nhau lăn ra đất.
John là đứa đầu tiên tách được ra. Cậu đứng lên và nhìn Henry vẫn còn ngồi bóp cùi chỏ.
- Cậu điếc đặc rồi hả? Cậu không nghe tớ hét lên bảo cậu coi chừng các bậc thang hay sao?
Henry lắc đầu mấy cái liền để tỉnh lại. Vừa bóp cùi chỏ bị đau, cậu vừa ném cái nhìn giận dữ về phía cầu thang.
- Cái bậc thang quỷ quái này làm sao vậy? Thật ngu xuẩn khi… – Ngu xuẩn ư? – John ngắt lời. – Không phải là ý kiến của tớ đâu nhé.
Henry ngạc nhiên quay sang thằng bạn đang vờ quan sát trần nhà.
- Cậu muốn nói gì, John? Ở đó có một nấc thang cao gấp đôi những nấc thang khác! Mà cậu cho là không là ngu xuẩn ư?
Henry khinh khỉnh nói tiếp:
- Nếu như tớ đã đứng trong căn nhà này, tớ đã biết và không bị ngã như thế!
John bực bội phản đối. Nó chỉ bậc thang.
- Những nấc thang như cái này có rất nhiều trong những lâu đài ở châu Âu.
Henry mỉa mai:
- Những người vào thời đó, có lẽ là người hết sức ngu xuẩn! Chắc họ thích bị dập mặt mỗi khi đi xuống căn hầm của họ!
Cậu đứng lên đi đến cầu thang và đếm. Cậu nhận thấy cái nấc thang mà cậu đang đề cập tới là nấc thang thứ sáu từ dưới lên và thật sự nó cao gấp hai lần các nấc thang khác.
John tỏ vẻ khuất phục giải thích cho bạn nghe rõ ràng:
- Cậu hãy tưởng tượng rằng cậu đã sống ở đây hơn hai thế kỷ. Một ngày nọ, một tên cầm dao rượt đuổi theo cậu trong cầu thang này. Cậu thì biết nấc thang quái quỷ này, còn hắn, hoàn toàn mù tịt về nó. Lúc đó thì việc gì đã xảy ra? Nó trượt vào lao xuống. Còn cậu, cậu vẫn đứng vững. Cậu chờ nó trong hầm với một cây gậy hay vũ khí nào đó. Cậu thấy chưa? Họ không ngu như cậu nghĩ đâu.
Nói xong, John quay gót, trong khi bạn của cậu vẫn nhìn trân trân vào nấc thang. Một chút ánh sáng trong căn hầm đến từ ống thông gió hẹp được đặt ở giữa trần nhà. Nhờ vào lường ánh sáng này John bắt đầu lục soát khắp nơi.cậu phát hiện những sợi xích sắt nặng trịch có những chiếc vòng xây cố định trong tường. Chúng đã rỉ sét, phủ đầy bụi. Ở đầu mỗi sợi xích có một chiếc vòng sắt nhỏ.
- Nhìn cái này, Henry! – John kêu lên. – Khi tớ nói với giáo sư Allan chúng ta tìm thấy căn hầm này hay đúng hơn là cái ngục tối này, chắc chắn ông ấy sẽ chạy ngay đến.
Cậu bé đá vào các sợi xích.
- Chắc chúng dành cho bọn tù nhân… có lẽ là những người mà hải tặc Râu Đen bắt cóc để tống tiền.
Cậu bé đi đến gần ba cái hốc mà cậu đã nhận ra trong phần xa nhất và tối tăm nhất của phòng giam, vừa đi vừa vấp những mảnh vụn nằm lăn lóc trên mặt đất. Cậu dừng lại, quan sát những cánh cửa dày hé mở che khuất một phần hai con đường. Cánh cửa thứ ba bị rỉ sét và ẩm ướt làm long bản lề đã đổ từ rất lâu rồi.
Hai cánh cửa còn đứng vững có mang những ống khóa lớn hoặc đục thông phần trên khung cửa nhỏ hình chữ nhật có chấn song chắc chắn. Cả hai cánh cửa như được hàn dính vào tường bằng những mạng nhện đầy bụi.
John quay sang Henry. Henry đang quan sát những dây xích và nhất là mặt đất dưới các xích này. Câu vẫn mong tìm thấy một đồng tiền vàng thứ hai.
- Đây nhanh lên! – John nói. – Tớ đã tìm thấy những gian ngục thất.
Trong khi Henry đang đi ngang phòng giam, John đi vào một gian phòng chật hẹp. Ánh sáng của cái ống thông gió yết ớt hắt vào gian phòng nhưng cũng đủ để trông thấy không có gì đáng chú ý, trần của nó làm bằng vòm bằng đá thô. Tuy nhiên trong một góc, vữa đã bong đi, một tảng đá đã rơi ra. Nơi đó có một lỗ toang hoác và đen ngòm. Sau một lúc do dự, John thọc tay vào. Những ngón tay của cậu sờ nắn một vật mà ngay lúc đầu cậu nghĩ rằng đó là một con chuột chết đã khô cứng. Cậu lấy hết can đảm và cố chế ngự sự kinh tởm để không buông và kéo vật này ra ngoài. Thật là nhẹ nhõm khi cậu nhận ra đó là một cuộn giấy đã phủ đầy bụi.
- Henry! – John mừng rỡ thét lên. – Nhìn xem tớ đã tìm ra cái gì đây?
Cậu bé thận trọng mở cuộn giấy cứng như giấy bồi kêu dưới tay cậu. Nhưng Henry đã càu nhàu đi về phía cửa:
- Cậu tìm thấy một mảnh giấy! Trúng lớn rồi! Bây giờ, ta đi nào!
- Ồ, nó có vẻ cũ lắm… Có cả chữ viết lên đó nữa!
Cậu đẩy bạn sang một bên để đi ra trước khỏi xà lim và bước đến chỗ thông gió.
- Thật vậy sao? Có chữ viết hả? – Henry hỏi John và cẩn thận quan sát cuộn giấy.
- Phải, có chữ viết… Nhưng không rõ lắm!
Cậu mân mê mảnh giấy, trở qua trở lại trên tay. Cuối cùng cậu giải thích:
- Theo tớ nó không phải là giấy. Có lẽ là loại mà người ta thường dùng cho các bằng cấp… Một loại da thuộc, tớ nghĩ là vậy đó.
Hai đứa trẻ không nhận ra rằng từ vài phút căn xà lim càng lúc càng trở nên tốt hơn. Rồi thình lình ngay trên ống thông gió, những cây dù bị gió lay động mạnh. Đó là dấu hiệu báo một cơn bão. Môt tia chớp chạy ngang bầu trời. Từ xa tiếng sấm vang dội. Henry nhìn lên và nhận ra ở trên đầu ống thông gió những đám mây xám xịt. Tại sao mình lại để cho John thuyết phục đi đến đây nhỉ? – Cậu tự hỏi. – Tại sao cậu ấy muốn mình làm gì thì mình kuôn luôn phải làm theo nhỉ? Mình chỉ là một thằng ngốc, một thằng ngu si đần độn!
- Tớ đồng ý rồi, John, đó là da thuộc. Bây giờ, chúng ta chuồn thôi. Trời sắp mưa đến nơi rồi.
Đúng vào lúc đó, một con mèo xuất hiện nơi ngưỡng cửa xà lim. Nó giận dữ nhìn hai đứa trẻ, cất tiếng kêu với giọng con người đang cứu, một tiếng kêu như toát ra từ cả thân mình đen. mềm và mướt của nó. Liền ngay lúc đó là một tiếng sấm thứ hai, gần hơn nhiều. Không khí trong gian ngục thất trở nên lạnh. John và Henry đứng chết trận cách con mèo vài mét. Henry chợt rùng mình.
- Hình như là không thật. Cậu có thấy vậy không John?
Con mèo cong mình lên, qua những chiếc răng nanh dài và thẳng thoát ra một tiếng rít kéo dài. Rồi nó nhảy chồm tới như một mũi tên bay qua giữa hai đứa trẻ, thoát ra khỏi gian ngục thất lao về phía cầu thang và biến mất.
- Phù! – Henry thở phào ra. – Tớ không ở lại đây thêm một phút nào nữa.
- Nhìn qua ống thông gió kìa. – John đáp. – Cậu thấy là mưa đã bắt đầu thật mà! Ở đây ít ra chúng mình cũng có nơi trú mưa.
Và cậu lại quan sát mảnh da thuộc. John đưa mảnh da đến gần ống thông gió, nhưng cậu phải vội vàng đưa ngay đi để tránh những giọt mưa chảy dọc theo đường ống nhỏ xuống sàn nhà. Henry thèm thuồng nhìn ngắm cầu thang nơi con mèo vừa thoát ra.
- Lẽ ra chúng ta ít nhất cũng có thể lên đến tầng trệt. – Cậu đề nghị.
- Tại sao? – John hỏi.
Sau đó, vô tình Henry cũng trở thành nạn nhân của sự tò mò. Thật vậy, qua vai bạn, cậu bé cũng bắt đầu quan sát mảnh da thuộc. Cậu nhíu mày nhăn khuôn mặt đầy tàn nhang cực kỳ chú ý hỏi:
- Có phải cậu sắp có thể đọc được những chữ viết trên đó không?
John hít hít, chà mũi với mu bàn tay .
- Tớ nghĩ là tớ có thể.
Mực bị phai đi ở nhiều chỗ và có một màu rất lạ, những chữ viết đôi khi khó đọc được, chen lẫn một vài hình vẽ rất thô khiến người ta nghĩ đến những sơ đồ, những bản đồ hay những tư liệu huyền bí.
- Những chữ này là những lời do quỷ phán rằng … Henry phì cười:
- John giỡn mặt tớ hả!
- Được tự cậu đọc đi!
Henry cúi xuống mảnh ra thuộc, rồi mở to đôi mắt ra, lùi lại như đối diện với một con rắn.
- Cậu… không nghĩ… – Henry lắp bắp. – Chúng ta phải để mảnh da thuộc này lại chỗ của nó sao? Còn tớ thì tớ sẽ làm như vậy… và sẽ không bao giờ nghĩ đến nó nữa.
Nhưng John không quan tâm đến những lời khuyên khôn ngoan ấy, cậu lại đến gần ống thông gió tuy nhiên cậu cẩn thận không đứng ngay phía dưới và bắt đầu đọc. Tuy nhiên lần này cậu đọc thầm, thỉnh thoảng còn tỏ ra ngạc nhiên.
Cuối cùng Henry phản đối:
- Cậu không bảnh chút nào hả John! Ít ra cậu cũng đọc lớn lên!
- Được như vậy tớ đọc đây: “Mong rằng những câu thần chú phù thủy của tôi khiến cho lời nguyền của của quỷ về …” Cậu dừng lại.
Đoạn tiếp theo quá lộn xộn. Có thể đoán : “Eden và Robert May …” đại loại là như vậy.
Cậu chớp mắt, đưa mảnh da gần mặt hơn, đọc tiếp:
“…được viết bằng máu của tôi vào ngày mà tôi phải chết trên giàn thiêu …”.
Chữ ký khá rõ: “Quý bà Augusta Stowecroft… Ngày 6 tháng giêng năm 17…. Tôi nghĩ là năm 1719, nhưng không chắc chắn. Có những vết màu hơi đỏ, còn phần còn lại không hiểu được. những từ này viết như chữ viết của một mụ điên …” Bỗng John ngẩng đầu lên, một ánh sáng xuất hiện trong ánh mắt.
- Henry… những chữ viết này là của một mụ điên, cậu có biết là gì không?
- Trời ạ, không.
- Những câu thần chú …phù thủy!
John bỗng đi qua phòng giam đi đến cửa xà lim vừa vung vẩy mảnh da thuộc ở đó rồi quay trở lại .
- Henry, cậu có nhớ không, năm vừa qua, trong giờ học môn lịch sử, giáo sư Allan đã bảo chúng ta rằng trong vùng chúng ta ở, cách đây nhiều thế kỷ người ta đã thiêu sống vài mụ phù thủy không?
Henry há hốc mồm không nói được một lời nào. Lúc đó John hăng hái nói tiếp :
- Đúng rồi, chính là như vậy. Giáo sư còn nói với chúng ta rằng đôi khi một người phụ nữ chỉ bị buộc tội phù phép cũng đủ bị thiêu sống .
- Phải… phải, bây giờ tớ nhớ ra rồi.
- Thật rõ là như ban ngày! Mảnh da thuộc này là do một mụ phù thủy viết và tớ sẵn sàng cược rằng nó đã nằm trong vách xà lim hơn hai trăm năm rồi!
- Cậu lại đùa nữa rồi John! – Henry nói, Tuy nhiên, cậu cũng đến gần mảnh da thuộc và bắt đầu quan sát lại với một sự quan tâm mới.
John bỗng nảy sinh ý kiến mới và đập ngón tay trỏ lên mảnh da:
- Đây là câu giải đáp!
Henry lại tỏ vẻ không hiểu.
- Giải đáp nào?
- Sao mà ngốc thế hả! Chúng ta sẽ tổ chức một buổi biểu diễn… và chúng ta sẽ thu nhiều tiền đấy.
- Một buổi biểu diễn ư? – Henry càng lúc càng ngạc nhiên lặp lại.
- Cậu không hiểu sao?
Henry lắc đầu:
- Không.
Cậu chìa mảnh da thuộc ra.
- Có liên quan gì tới cái này?
- Liên quan gì ư ? – John kêu lên. – Liên quan đến tất cả!
Sau khi cẩn thận cuộn mảnh da lại, John giải thích:
- Phải có một căn phòng tối, một người nào đó bị kích thích quá độ, và nói chuyện với các linh hồn đang… Sự lo âu phủ lên gương mặt của Henry. John vẫn hào hứng tiếp tục:
- …Từ từ xuất hiện và… – Ai xuất hiện, John?
- Dĩ nhiên là những hồn ma.
- Những hồn ma thật à? Cậu đùa với tớ đấy hả!
- Dĩ nhiên không phải là những hồn ma thật rồi, nhưng mà người ta chỉ thấy những cái bóng. Bây giờ cậu có định nín cho tớ nói không? Cậu có muốn tớ giải thích đến nơi đến chốn cho cậu nghe không?
- Nói đi.
- Vậy thì, những linh hồn xuất hiện, người ta nghe những tiếng động lạ phi thường… Henry nhìn John đôi mắt hoảng hốt. John bỗng ngừng nói một lúc rồi bắt đầu nói tiếp:
- Phải làm việc này, Henry! Phải làm thôi! Cậu cũng biết bọn con nít thích những chuyện về hồn ma. Chuyện của chúng ta là những câu chuyện hay nhất. Và phải nghĩ đến số tiền mà chúng ta gặt hái được.
John đưa mảnh da về phía Henry, khiến cho Henry lùi lại thật nhanh và suýt ngã do vướng chân vào một sợi dây xích bị đính vào tường.
- Cậu biết không Henry, chúng ta có thể dùng một vài trò ảo thuật mà tớ làm khá tốt đấy! Thí dụ như làm cho một mảnh vải tự đứng thẳng lên tường. Cậu nghĩ sao?
- Không nghĩ gì cả … – Henry thều thào nói vừa nhìn chằm chằm vào mảnh da thuộc và vừa đi lùi lại, lần này nó lùi về phía cầu thang. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như một con ma thật xuất hiện?
Đúng lúc đó một tiếng sấm thứ ba vang dội ngay trên ngôi nhà. Henry giật bắn lên. John đá vào trong một tảng đá thô nằm rải rác trên mặt đất và đáp lại với một giọng khinh khỉnh:
- Nào Henry, cậu thật sự không tin vào những hồn ma sao? Ngay cả những buổi thông linh gọi hồn thật nữa sao, tất cả đều là giả, tất cả chỉ là trò đùa. Bố tớ đã bảo như vậy. Thực ra chỉ là những trò ảo thuật cũng như chúng ta vẫn làm chơi với nhau.
Henry có vẻ bị thuyết phục.
- Tớ không biết … – Cậu lặp lại.
Chính lúc đó con mèo ướt sũng nước mưa lại xuất hiện một lần nữa trong cầu thang. mắt nó phóng những tia chớp và từ cổ họng của nó phát ra những tiếng kêu hận thù chát chúa. Henry tựa lưng vào bức tường lạnh và ẩm ướt.
- Cút đi! – John hét lên và hốt một nắm đá vụn ném về phía con mèo.
Nhưng nó không cử động, nó chỉ đáp trả bằng cách rít lên những tiếng kêu dữ tợn chỉ riêng của nó. Sau đó nó quay lại trở lên cầu thang và biến mất như lúc ban đầu.
- Tớ mong rằng con mèo này để chúng ta yên. – Henry tuyên bố. – ngục thất này đã quá ảm đạm rồi. Còn riêng tớ, tớ rất ghét mèo!
- Chà, bỏ qua chuyện ấy đi. – John nói. – Nên nói về buổi thông linh gọi hồn của chúng ta thì hơn!
John trở lại phía ánh sáng, có nghĩa là phía ống thông gió vừa thu xếp để không bị ngấm nước mưa đang rơi xuống đọng thành vũng trên mặt đất. Cậu ngẩng đầu lên quan sát bầu trời một lúc cậu bất thần quay lại đối diện với Henry.
- Cậu biết tớ đang nghĩ gì không? Chúng ta phải có một bàn xoay… một cái bàn có thể tự nó bốc lên như bị điều khiển bởi một hồn ma! Và trong việc đó chúng ta sẽ sử dụng mảnh da thuộc này… những câu bùa chú và phần còn lại!
Henry nhìn chăm chú bạn mình với một vẻ sợ hãi càng lúc càng tăng.
- Quỷ thần ơi, cậu điên rồi đấy, John! Cậu sẽ không làm điều đó chứ? Dù sao cũng đừng nghĩ đến tớ sẽ giúp cậu đâu nhé!
Henry chỉ mảnh da thuộc nói tiếp:
- Có thể là một mụ phù thủy thật sự đã viết trên đó những câu bùa chú này, cậu hãy tưởng tượng rằng chúng… có thể thực hiện được! Thì điều gì đã xảy ra nào?
- Henry, chúng ta không thể không thể không sử dụng mảnh da thuộc này. Cậu muốn gì nào? Phá hủy kế hoạch của chúng ta ư? Ồ! Tớ biết những gì viết trên đây làm cho cậu sợ.Nhưng đó chỉ là những chữ rời rạc thôi. Còn về hình vẽ. Một đứa trẻ con cũng có thể vẽ. Hơn nữa, nghe tớ nói đây, tớ nhắc lại cho cậu hiểu rằng bố tớ bảo sự thông linh gọi hồn chỉ là trò đùa. Và bố tớ rất hiểu những gì bố tớ nói. Ông đã thực sự tham dự vào một buổi lễ thông linh với mẹ tớ.
- Mẹ cậu cũng bảo chỉ là một trò đùa thôi sao?
- Ơ… không chính xác là như vậy.
- Còn bố tớ thì dám bảo rằng quán rượu cổ này có ma. Và cũng như bố cậu, bố tớ cũng biết những gì ông ấy nói. Maynard đã có lần thuê bố tớ sửa chữa tòa bộ ống dẫn nước trong gian phòng chính, trong các phòng khác, khắp nơi. Thế mà không có một ống nước nào bền được đến vài tuần.
- Kìa, Henry. Giữa việc sửa ống nước và những hồn ma có gì trùng hợp đâu? Ngay cả khi chấp nhận rằng có những hồn ma ở đây. Cậu không tưởng tượng được rằng chúng ta có những phương tiện khiến họ trở lại sao? Chúng ta chỉ làm một buổi biểu diễn đùa vui cho bạn bè. Chúng sẽ rất vui. Cũng nên nghĩ đến số tiền chúng ta sẽ thu được.
Henry bắt đầu bĩnh tĩnh lại. Cậu chậm chạp nói:
- Dù sao, có thể nó cũng sẽ suôn sẻ… – Dĩ nhiên là nó sẽ tốt thôi!
John đến một chỗ còn khô ráo gần xà lim nơi mảnh da thuộc được phát hiện, cậu quỳ xuống đối diện với ánh sáng. Trong tư thế đó cậu quay lưng lại lối vào xà lim.
- Đến đây Henry. Tớ sẽ chỉ cho cậu.
John mở mảnh da thuộc, trải nó trên sàn và giữ nó với vài viên đá thô phủ lên và vài mắt xích sắt rỉ sét.
Henry do dự, run từ đầu đến chân, cậu tiến đến với bước chân xiêu vẹo và vụng về đến gần bạn. Cậu nhìn vào mảnh da thuộc và gậm nhấm móng tay cái và rên rỉ:
- John, nếu điều gì sẽ xảy ra cho chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng đáng đời chúng mình lắm đó!
- Đồ hèn!
- Tớ mà hèn à? – Henry cực lực phản đối.
- Được, được rồi. Cậu đừng nhúc nhích nữa được không? Tớ sẽ vẽ lại các hình vẽ kỳ lạ này và đọc những câu thần chú. Như thế cậu sẽ biết mình phải làm gì khi chúng ta thực hiện buổi diễn.
Henry phật ý cúi đầu, nhét ngón tay vào lỗ tai và nghi ngờ nhìn John vẽ những dấu hiệu bằng ngón tay trỏ trong lớp bùn dày đặc màu xanh phủ lên sàn nhà.
- Cậu vẽ đường này quá cong queo. – Henry nói với một giọng đầy uy quyền. Nó phải thẳng hơn nữa.
- Không quan trọng! – John giải thích. – Không cần hoàn toàn giống đâu như tớ đã nói với cậu, tớ chỉ đơn giản muốn chỉ cho cậu cách mình sẽ tiến hành buổi biểu diễn thôi.
- Trong trường hợp này, – Henry thở dài. Nó hài lòng vì đã ghi được điểm. – Ít ra hình vẽ của cậu phải thực hiện thật giống.
Nhưng John đã không quan tâm đến nhận xét của bạn. Cậu bắt đầu đọc lâm râm những bùa chú ở phía dưới mảnh da thuộc.
- Aum… aum… aum… Mananan… Verlum… so… fohat… kaliyoug!… aum… aum, aum… Mananan Verlum fohat kaliyoug!
John dừng lại, nhìn Henry:
- Khi có liên quan đến một người đã khuất từ rất lâu, dường như phải… Cậu đưa mắt nhìn chữ ký trên mảnh da thuộc khi đã tìm thấy rồi cậu bắt đầu lâm râm khấn vái:
- Bớ quý bà Augusta Stoweccraft, hãy đến với chúng tôi, hãy đến với chúng tôi đây… hãy đến với...