lại câu chuyện bịa đặt kia. Hách lão gật gù:
- Nếu Tiểu Bạch giết nổi ác Y Hồ LỘ Kỳ thì nó chính là linh vật của Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt. Bốn mươi năm trước lão phu có gặp ông tavà một con vượn trắng.
Không ngờ Cuồng Kiếm quy tiên mà nó vẫn còn đây.
Ba ngày sau khi Tổng Binh Lư Lăng đã hạ trại cách Văn gia bảo trăm trượng, Tuấn Hạc mới yên tâm lên đường.
Ngoài tiền bạc, chàng còn mang thư giới thiệu của Thiên Diện Ma Cơ Hà Tú Chân. Bà là sư điệt của môn chủ Biến Hình Môn.
Nhưng chàng lại đi thẳng đến Kim Hoa, cách ôn Châu bốn trăm dặm. Nơi đây chính là tổng đàn của Hoài Hạc Bang - nằm ngay trên ngọn đồi nhỏ cách cửa Nam thành mười dặm.
Đầu tháng bảy chàng mới đến nơi. Y phục ướt sạch vì cơn mưa hạ. Tuấn Hạc vào thành tìm chỗ trọ. Tắm gội, thay áo xong, chàng ra phố tìm bọn hóa tử. Cái Bang bị triều đình giải tán nên không hề có phân đà. Nếu ai có hỏi, bọn khất cái cũng chẳng dám nhận mình là con cháu của Hồng Thất Công.
Hôm nay là ngày mồng một nên đám hóa tử tụ tập đông đảo ở cổng chùa Lăng Nghiêm Tự.
Tuấn Hạc không vào chùa mà đứng ngoài quan sát bọn khất cái. Cuối cùng, chàng đã phát hiện ra kẻ đứng đầu. Đó là một lão già râu ngắn, tuổi độ ngũ tuần. Lão ngồi giữa hàng, trên ngực chiếc áo rách kín đáo điểm sáu mụn vá nhỏ màu xanh. Nếu không biết trước ký hiệu này, sẽ chẳng ai đế ý. Nó tượng trưng cho cấp bậc sáu túi. Lão chính là phân đà chủ Kim Hoa.
Tuấn Hạc đã đổi sẵn một ít tiền đồng, chàng đi vào bố thí cho từng người. Đến trước mặt lão phân đàn chủ, chàng ném tiền vào chiếc nón rách của lão, kèm theo đồng tiền cổ. Đồng thời chàng giả đò làm rớt cây quạt giấy, lúc cúi xuống nhặt quạt, chàng nói nhỏ với đối phương :
- Nửa khắc nữa ra sau chùa gặp ta.
Chàng thò tay lấy lại tín phù rồi đi vào chùa.
Chỉ vái vài cái lấy lệ, Tuấn Hạc trở ra ngoài.
chàng đi vòng về phía bức tường sau Lăng Nghiêm Tự đứng chờ.
Lát sau, lão khất cái râu ngắn xuất hiện. Lão quan sát chàng rồi bảo:
- Công tử bao nhiêu niên kỷ?
- Bốn mươi!
Lão nghe đúng mật khẩu, hoan hỉ vòng tay:
- Tiểu nhân là Đoản Tu Cái Côn Hành Khuất Phải chăng công tử ở họ Văn?
Chàng gật đầu rồi hỏi lại:
- Tứ trướng lão Cù Sở Hòa đã đến đây chưa?
- Thưa đã! Người đến đây cách nay gần tháng Khi nghe nói tổng đàn Hoài Hạc Bang không còn một bóng người, trướng lão dắt tiểu nhân đến tận nơi điều tra. Người đoán rằng ở đây đã xảy ra một cuộc chiến khốc liệt. Theo dấu vó ngửa để lại, Cù trướng lão theo hướng Đông Nam mà truy tìm. Người dặn tiểu nhân nếu công tử có đến thì báo lại rằng có thể tàn quân của Hoài Hạc Bang kéo về hướng ôn Châu - hoặc bị bắt làm tù binh. Nhưng từ lúc chia tay đến giờ, phân đà Kim Hoa không còn nhận được tin tức của Tứ trướng lão nữa.
Tuấn Hạc hỏi ngay:
- Túc hạ ở đây từ lúc Hoài Hạc Bang ra đời, vậy có biết lai lịch của gã bang chủ ấy hay không?
- Thưa không, ngoài cái tên giả Văn Tuấn Hạc, chẳng ai được thấy gã bao giờ. Nhân số Hoài Hạc Bang cũng chỉ độ gần trăm.
Tuấn Hạc từ giả Đoản Tu Cái và khách điếm thu xếp hành lý đi ngay.
Mùa hạ này, các khối băng trôi từ Bắc Hải về phía Nam đã làm cho nhiệt độ Hoàng Hải xuống thấp. Không khí lạnh tràn vào khu vực hạ lưu Trường Giang, gặp khối khí nóng ẩm, khiến hơi nước ngưng tụ, trời trở nên âm u, có mưa phùn kéo dài.
Chàng đặt Thần Viên vào lòng, trùm kín áo tơi thúc ngựa phi mau. Đường quan đạo lầy lội, nước đọng lại thành vũng và bắn tung tóe, làm cho bốn vó tuấn mã và hai chân chàng bùn bám lấm lem.
Hai ngày sau, trời đột nhiên quang đãng hơn, mưa ngừng rơi, mặt trời le lói sau đám mây xám lững lờ. Lúc này, Tuấn Hạc chỉ còn cách ôn Châu chừng trăm dặm.
Trước mặt chàng là một đoạn đường vắng vẻ đi ngang qua khu rừng thưa. Tiến lên được hơn dặm đã nghe tiếng quát tháo, tiếng vũ khí va chạm vọng lại. Chàng đoán rằng lữ khách nào đó bị cường đạo chặn đường, liền thúc ngựa phi nước đại. Khi đến nơi, cuộc chiến đã gần tàn.
Sáu tên bịt mặt đang vây quanh hai thiếu nữ.
Nàng áo hồng đã mê man, nằm gục trên mặt lộ.
Nàng áo đen đứng bên, đang cố chống cự, nhưng chỉ như ngọn đèn sắp tắt.
Tuấn Hạc thấy cảnh ngộ này, nộ khí bừng bừng, quát vang như sấm:
- Lũ cẩu tặc !
Chàng như chiếc pháo thăng thiên rời yên ngựa, bay chếch về phía trận địa. Tiểu Bạch cũng không chịu chậm chân. Tử trên cao, Tuấn Hạc xuất chiêu Khuê Đẩu Quang Minh, nhắm vào đầu hai gã bịt mặt gần nhất.
Tiếng quát của chàng đã khiến bọn chúng đề phòng - vung kiếm đón chiêu. Kiếm phong rít lên ghê rợn, chứng tỏ một công lực thâm hậu.
Tuy nhiên, pho chướng pháp này là tuyệt học hãn thế của Công Tôn Quang Nguyệt nên chẳng dễ gì đối phó.
Chướng kình liên tiếp vỗ vào lưới kiếm và âm thầm xuyên qua chỗ sơ hở, giáng vào ngực chúng. Hai gã kia trứng đòn, gào lên thảm thiết quị xuống mặt đất.
Tiểu Bạch chỉ học được phần cầm nã và quyền pháp trong pho tuyệt học kia, nhưng bù lại nó có lớp lông dầy trắng muốt, không sợ gươm đao và thần lực bẩm sinh. Nó không tấn công từ trên xuống mà lao thẳng vào hạ bàn gã thứ ba. Đối phương chưa kịp nhận ra cái bóng trắng nhỏ bé kia là vật gì, cũng vung cước đá liền. Tiểu Bạch chụp ngay bàn chân bẻ mạnh khiến gã trật khớp kêu trời. Và sau đó là tiếng than vãn cuối cùng vì Thần Viên đã thọc bàn tay đầy móng sắt vào bụng gã.
Ba tên còn lại điên cuồng lao đến tấn công.
Tuấn Hạc cười nhạt xông vào như không biết sợ chết là gì. Thân hình chàng uyển chuyển và linh hoạt luồn lách giữa ba thanh gươm. Thủ cước ra đòn như chớp giật, uy hiếp các nhược điểm của đối phương. Dường như chàng muốn mượn tay ba gã để thử uy lực pho chướng pháp? Thực ra không phải thế, kiếm pháp của ba gã này rất ảo diệu, chàng thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên chưa tìm ra cách giải phá.
Nhưng Tiểu Bạch đã lao vào lưng một gã. Nó chẳng hề để ý gì đến qui củ của võ lâm hay tinh thần thượng võ cả. Đối phương nghe hơi gió vội quay lại, vung kiếm đỡ đòn. Trường kiếm chém vào lớp lông dày và trượt đi. Cánh tay dài thườn thượt của Thần Viên vươn đến vỗ vào mặt gã. Đôi nhãn cầu vỡ nát, xương đầu rạn nứt, nạn nhân gào lên rồi ngã vật xuống.
Tuấn Hạc phấn khởi dồn chân khí vào song thủ, chụp lấy lưỡi kiếm của tên trước mặt.
Chàng lôi gã về phía mình và tống một quyền vào ngực. Lối đánh cương mãnh này khiến gã còn lại giật mình định đào tẩu. Tuấn Hạc cười nhạt ve vẩy đôi bàn tay. Mười ngón biến thành vạn ngón và một trong những ngón ấy búng luồng chỉ phong vào huyệt Liên Khuyết trên cổ tay hữu - thuộc kinh Thủ Thái âm Phế. Thanh trường kiếm rơi xuống, nhưng gã này có võ công cao cường, cơ trí biến báo nên đã nhịn đau vỗ thẳng vào ngực Tuấn Hạc. Gã đắc thủ nhưng nghe như đánh vào đá, chiếc cổ tay đau đớn gãy lìa. Chân phải Tuấn Hạc đã quất thẳng vào bụng dưới đối thủ, đưa lão về chín suối.
Lúc này thiếu nữ áo đen cũng đã gục xuống.
Chàng vội chạy đến xem thử. Thấy cả hai mê man bất tỉnh, mạch đập rất yếu, Tuấn Hạc cho họ uống linh đan.
Nếu họ là nam nhân, chàng đã có thể cởi áo xem xét thương thế và xoa bóp huyệt đạo.
Tuấn Hạc theo nho học nên trọng lễ nghĩa, không dám sơ xuất.
Trời lại u ám, mây đen giăng mắt, báo hiệu một cơn mưa. Tuấn Hạc thở dài nghĩ đến tòa phế miếu cách đây nửa dặm. Lúc đi chàng đã thấy nó ẩn hiện trong rừng, cách vệ đường vài mươi trượng.
Tuy thiếu lịch duyệt nhưng chàng cũng hiểu rằng không thể để sáu tử thi kia nằm phơi trên mặt lộ, phe đối phương sẽ phát hiện lùng sục ngay. Chàng không sợ chúng nhưng còn hai thiếu nữ này thì sao?
Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch kéo xác giấu vào rừng, còn chàng đưa hai nạn nhân lên lưng ngựa.
Thần Viên chỉ đi ba lượt đã hoàn tất nhiệm vụ Tuấn Hạc đặt hai người nằm vắt ngang qua lưng ngựa rồi dẫn đi ngược trở lại. Cơn mưa sắp đến sẽ xóa tan vết máu và dấu vó ngựa.
Vừa đến được tòa cổ miếu thì cơn mưa ập đến, không phải mưa phùn mà là mưa rào. May thay, một phía mái ngói còn nguyên vẹn nên phần nền chỗ ấy không bị ướt. Chàng trải áo tơi và thêm tấm áo choàng rồi mới đặt họ nằm lên.
Giờ đây chàng mới có dịp nhìn rõ gương mặt hai thiếu nữ. Nàng áo hồng tuổi độ đôi mươi, dù da mặt đang tái xanh vì thương thế mà vẫn lộ rõ một dung nhan diễm lệ. Ngược lại nàng áo đen có gương mặt nạm, xấu xí.
Tuấn Hạc bảo Tiểu Bạch canh gác rồi thăm mạch lần nữa. Thấy khí huyết trì trệ, không thông suốt dù trên người không dấu máu.
Chàng đoán rằng họ trứng chướng thương.
Nhưng nếu không cởi áo họ ra, sao có thể nhận biết được thủ pháp mà chữa trị? Nghe hơi thở họ yếu dần, Tuấn Hạc cau mày lẩm bẩm:
- Lẽ nào thấy chết mà không cứu? Giữ được chút lễ nghĩa mà phế bỏ đạo nhân thì có xứng đáng là người quân tử hay không?
Nghe tâm yên ổn, Tuấn Hạc lật họ nằm sấp xuống, kéo áo lên xem, chàng hy vọng vết thương sẽ nằm ở phía sau như thế đỡ thất lễ hơn. Nhưng tiếc thay, hoàn toàn không có gì ca.
Chàng đành đỡ họ nằm ngửa trở lại. Nhớ đến ôn Tiểu Băng, Tuấn Hạc bỗng ngần ngại.
Đồng ý rằng ngộ biến tùng quyền nhưng quan niệm tiết trinh thời bấy giờ rất khắc khe. Nếu những nạn nhân này không thông cảm, chàng khó mà từ chối hôn sự.
Nay ôn Tiểu Băng vì chàng mà ngọc nát châu trầm, lẽ nào chàng lại đa mang thêm nữa?
Tuấn Hạc quyết định chữa trị cho thiếu nữ xấu xí kia trước, rồi nhờ nàng xoa bóp cho thiếu nữ áo hồng xinh đẹp. Có như thế,Tiểu Băng mới không trách chàng là người tham sắc.
Đã có chủ ý, Tuấn Hạc cởi áo ngoài và chiếc yếm đào của nạn nhân. Thân trên ngọc ngà hiện ra khiến chàng đỏ mặt. Người con gái thon gầy này lại đầy đặn, nở nang hơn bề ngoài.
Một dấu chướng ấn xám xì nằm ngay giữa hai nhũ hoa. Tuấn Hạc quan sát và hồi tướng lại Y Kinh, chàng nhận ra đây là Khôi Yên Thủ của Thiên Sư Giáo.
Chàng hít một hơi dài, cố trấn tĩnh tâm hồn, điểm vào các huyệt Trung Phủ, Thềm Tăng, Nhũ Trung, Bất Dung, Thần Phong. Trong đó có hai huyệt Nhũ Trung nằm ngay trên vú.
Sau đó, chàng ngồi xếp bằng, tả thủ đặt vào giữa hai vết thương, hũu thủ áp lên khí huyệt ở bụng dưới. Chân khí của chàng trút vào Chí Huyệt - lên đến vết thương - ngay huyệt Đản Trung - và chất độc bị tay trái hút ra ngoài.
Chỉ nửa khác sau, luồng chân nguyên hùng hậu của chàng đã trục hết độc tố, đả thông tâm mạch, chàng không dám nhìn tấm thân nõn nà, khêu gợi kia. Chính vì vậy chàng không biết rằng thiếu nữ áo đen đã tỉnh lại trước rồi. Nàng nhìn say đắm gương mặt anh tuấn của chàng, đôi dòng lệ tuôn trào. Và nàng kịp nhắm mắt lại trước khi chàng xả công.
Tuấn Hạc thấy vết chướng ấn đã biến mất mà sao nạn nhân vẫn chưa tỉnh lại. Chàng cắn răng xoa bóp các huyệt đạo trên ngực, cố dùng lửa tam muội hỗ trợ luồng chân khí của nạn nhân Thiếu nữ mặt nạm ngất ngây và hổ thẹn, đành phải tỉnh lại. Nàng nhìn Tuấn Hạc bằng cặp mắt ai oán và trách móc. Chàng nghe mặt nóng bừng, vội nói ngay:
- Tiểu sinh không nỡ để cô nương táng mạng nên đành vượt qua lễ giáo, mạo phạm đến ngọc thể Mọi sự sẽ giải quyết sau. Nay xin cô nương điều tức một lát để phục hồi công lực mà cứu nữ lang áo hồng kia.
Thiếu nữ áo đen bẽn lẽn mặc lại áo rồihỏi:
- vì sao công tử không ra tay cứu Doanh muội mà lại cứu ta trước?
Tuấn Hạc buồn rầu đáp :
- Tiểu sinh đã lỡ nặng mối chung tình với một người, đâu dám vương vấn cùng ai nữa.
Nếu sau này nàng biết chuyện hôm nay, may ra tiểu sinh còn có cơ hội biện bạch.
Thiếu nữ hiểu ngay tâm trạng của chàng, mắt tóe lên những tia bí ẩn:
- Thì ra công tử cho rằng thiếp xấu xí, tất sẽ không dám với cao chứ gì? Công tử sai rồi, thiếp tuy gương mặt đen đũa nhưng lại là người cương liệt. Thân này đã bị công tử chạm đến, coi như đã thuộc về công tử. Nếu chàng chê bỏ, thiếp sẽ tự sát ngay, Tuấn Hạc khẳng khái đáp :
- Kẻ làm điều nhân không hề nghĩ đến hậu quả Nếu cô nương chịu phận lẽ mọn, tiểu sinh cũng chẳng dám chối từ trách nhiệm. Tiểu Băng là người nhân hậu tất sẽ lượng thứ cho chúng ta. Giờ xin cô nương theo lời chỉ dẫn của tiểu sinh mà chữa trị cho lệnh muội. Tiểu sinh sẽ truyền công lực qua người cô nương, bất tất phải điều tức nữa.
Thiếu nữ ranh mãnh nói:
- Thiếp đã quá mệt mỏi, e không làm đúng theo lời công tử chỉ dẫn, sao chàng không tự mình làm đi? Hai chị em thiếp thờ chung một chồng cũng chẳng sao. Tiểu Băng cô nương nào đó chắc cũng chấp nhận thôi. Cổ nhân có câu: Ngộ biến tùng quyền mà.
Tuấn Hạc nhăn mặt:
- Một mình cô nương cũng đã khiến tiểu sinh lỗi đạo với Tiểu Băng, xin hãy lượng thứ.
Thiếu nữ áo đen động tâm trước tấm lòng chung thủy, liếc chàng say đắm. ánh mắt nàng chất ngất yêu thương khiến Tuấn Hạc phải ngỡ ngàng.
Nàng ta cởi áo thiếu nữ kia, lúc quay lại thi thấy chàng đã nhắm nghiền mắt lại. Nàng phì cười :
- Đúng là hủ nho ! Gặp người quốc sắc mà không biết thướng thức.
Tuấn Hạc cắn răng không đáp, từ tốn chỉ cho nàng phương pháp trị thương. Thiếu nữ nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi nũng nịu nói:
- Thú thật với công tử là thiếp không tường vị trí các huyệt đạo. Mong công tử chỉ dẫn cho, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Chỉ nhìn thôi chắc cũng không đến nỗi nào? Lát nữa Doanh muội tỉnh lại, thiếp sẽ giấu kín việc ấy.
Tuấn Hạc sợ nàng điểm sai, nguy đến tính mạng nạn nhân, đành thở dài, mở mắt ra. Trọn vẹn thân trên cơ thể mỹ nữ lồ lộ như pho tượng ngọc. Tuấn Hạc cắn răng hướng dẫn, xác định vị trí đứng để nữ lang mặt nam điểm vào.
Gần khắc sau, thiếu nữ kia tỉnh lại. Nàng ngơ ngác nhìn người bạn gái và chàng trai tuấn tú kia. Nữ lang áo đen nháy mắt rồi khép vạt áo của nàng kia lại. Nàng vui vẻ đáp:
- Công tử có thể mở mắt rồi đấy. Doanh muội đã hồi tỉnh.
Tuấn Hạc thở phào, rút tay lại đứng lên, đi ra ngoài để hai nàng sửa sang xiêm áo.
Không hiểu họ đã nói gì với nhau mà tàn nửa nén hương mới gọi chàng vào. Tuấn Hạc bối rối khi thấy nữ lang áo hồng đỏ mặt, cúi đầu vân vê tà áo Chàng đoán rằng nữ lang xấu xí kia đã kể lại chuyện trị thương.
Tuấn Hạc vòng tay nới :
- Tiểu sinh là Văn Tuấn Hạc, quê ở Giang Tây. Dám hỏi phương danh nhị vị?
Nữ lang mặt nam đáp ngay:
- Thiếp là Hàn Khiết Văn, còn đây là biểu muội Hàn Khiết Doanh. Công tử chắc là Văn nhị thiếu chủ của Văn gia bảo? Có việc gì mà lại đi ngang đây?
Tuấn Hạc lúng túng đáp :
- Tiểu sinh đi ôn Châu có chút việc riêng.
Thiếu nữ áo đen nghiêm nghị nói:
- Chị em thiếp đã bàn bạc với nhau, đồng lòng xin làm tỳ thiếp. Sau này, nếu ôn cô nương rộng lượng dung nạp mới dám nâng khăn sửa túi cho công tử, bằng như bị ôn cô nương từ chối, sẽ bỏ đi ngay, không dám xen vào hạnh phúc của nhị vị. Công tử thấy thế nào?
Tuấn Hạc giật mình:
- Sao lại cả hai người như vậy?
Hà Khiết Văn mỉm cười:
- Chị em thiếp từ lâu đã nguyện cùng thờ một chồng để khỏi phải xa nhau. Khi gặp ôn cô nương, bọn thiếp sẽ biện minh để nàng không trách công tử.
Tuấn Hạc cũng đang thầm áy náy vì câu lễ nghĩa, tiết trinh nên đành xuôi tay, chấp thuận:
- Nhị vị đã hết lời, tiểu sinh xin phụng ý.
Việc duyên nợ cứ để cho Tiểu Băng định đoạt.
Hàn Khiết Văn kéo tay Khiết Doanh đến nghiêng mình ra mắt:
- Chúng thiếp bái kiến tướng công.
Chàng nhìn hai nữ nhân, thở dài thườn thượt. Khiết Văn cười hỏi:
- Tuy thiếp xấu xí nhưng Doanh muội xinh đẹp như tiên nga, công tử còn buồn chi nữa?
Tuấn Hạc bùi ngùi đáp :
- Tiểu Băng với ta tình thâm như biển, dẫu hai nàng kiều diễm hơn nữa cũng chẳng thể khiến ta quên được người xưa. Hơn nữa, hiện nay nàng trôi dạt phương nào ta cũng chẳng hay, lòng dạ nào mà vui duyên mới?
Khiết Doanh thò tay nhéo vào lưng Khiết Văn nàng nhột nhạt ưỡn người né tránh. Khiết Văn hỏi lại Tuấn Hạc:
- Dám hỏi có phải công tử đang đề cập đến Thiên Độc Thánh Nữ hay không?
- Chính là nàng, ta đi về Đông chuyến này cũng là để tìm Tiểu Băng.
Khiết Doanh đã mạnh dạn hơn, nàng thỏ thẻ:
- Thiếp nghe nói ôn đại thư đã bỏ mình dưới sóng nước Trường Giang rồi mà?
Tuấn Hạc nói như đang hy vọng:
- Không đâu! Ta đoán rằng nàng thoát chết và trở thành Hoài Hạc Bang chủ! Tháng trước, tổng đàn của nàng ở Kim Hoa bị tấn công. Dấu vết để lại cho thấy Hoài Hạc Bang đã rút lui, hoặc bị bắt đi về hướng này. Như thế, hung thủ có thể là Biến Hình Môn.
Khiết Doanh biến sắc cãi ngay:
- Thiếp chính là một đệ tử của Biến Hình Môn, có thể đoan chắc rằng không có việc ấy.
Khiết Văn cũng nói:
- Thiếp đã từng đến Kim Hoa và tình cờ đi ngang qua ngọn đồi Quý Khâu và gặp bang chủ Hoài Hạc Bang. Đó là một nam nhân.
Tuấn Hạc choáng váng, thẩn thờ:
- Thế là hết, ta còn biết dựa vào đâu để tìm Tiểu Băng nữa đây?
Khiết Văn mỉm cười:
- Thiếp vốn là tỳ nữ thân tín của ôn tiểu thư, có mặt trên chiếc thuyền hoa hôm ấy nên có thể đoan chắc rằng nàng vẫn còn sống. Thánh Nữ sinh trướng ở Nghi Xương, bơi lội như cá kình, làm sao chết đuối dược?
Tuấn Hạc mừng rỡ nắm tay nàng hỏi dồn:
- Thật thế sao? Nàng hãy kể rõ sự việc hôm ấy cho ta nghe đi !
Khiết Văn nhăn mặt:
- Thiếp đói bụng lắm rồi, để vừa ăn vừa nói cũng được.
Nàng bước ra ngoài, rú lên cao vút. Lát sau, hai con tuấn mã chạy đến, trên yên còn đầy đủ hành lý.
Trời vẫn còn mưa dai dẳng, không biết lúc nào sẽ ngưng và chiều cũng đã buông. Khiết Văn dắt cả ba con ngựa vào miếu, cho chúng đứng ở nửa miếu tả. Dù dột nát nhưng cũng hơn ở ngoài trời mưa gió.
Tuấn Hạc gom gỗ mục nhóm lửa xong, gọi Tiểu Bạch vào. Chàng chỉ hai nàng rồi bảo:
- Tiểu Bạch, họ là tỳ thiếp của ta đấy.
Thần Viên khệnh khạng vòng tay cúi đầu chào. Khiết Doanh thích thú bước đến vuốt ve Tiểu Bạch:
- ôi chao ! Sao tướng công lại nuôi được con vượn xinh đẹp và thông minh thế này?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Tiểu Bạch còn là sư huynh của ta đấy!
Thần Viên đắc ý, vỗ ngực thọt khét liên hồi.
Khiết Văn tháo hai bọc hành lý, lấy thực phẩm bày trên tấm áo tơi. Họ là nữ nhân nên trữ toàn là bánh kẹo, mứt khô. May mà còn có một con gà nướng dành cho Tuấn Hạc.
Chàng định chia thịt cho họ thì Khiết Doanh bảo:
- Bọn thiếp chỉ ăn chút bánh mứt là đủ rồi.
Tướng công cứ dùng đi.
Tiểu Bạch nếm thử chiếc kẹo hoa quế, gật gù khen ngon. Nó chưa bao giờ được ăn những thứ này.
Tuấn Hạc ăn xong mà hai nàng kia vẫn còn nhấm nháp. Chàng nhìn Khiết Văn bằng cặp mắt van nài. Nàng bật cười khúc khích:
- Tướng công cứ nhìn thiếp...