chăm chăm như vậy làm sao thiếp nuốt nổi?
Tuấn Hạc bâng khuâng vì nụ cười kia đầy ma lực và thân thiết. Mặt nàng loang lỗ những vết nam đen, nhưng môi đỏ như son, hàm răng đều đặn và trắng như ngọc, khi nàng cười, ánh mắt đầy vẻ đắm say, tình tứ. Chàng bâng khuâng nhớ đến Tiểu Băng.
Khiết Văn thấy dáng điệu ngơ ngẩn của chàng, giận dỗi nói:
- Thôi được! Thiếp chẳng thèm ăn nữa! Nếu không kể ngay chắc tướng công sẽ thầm trách thiếp Khiết Doanh bật cười:
- ôn đại thư quả là tốt phúc !
Nói xong, nàng giật mình. Nhưng thấy Tuấn Hạc không có phản ứng, nàng thở phào nhẹ nhõm. Thực ra, câu này của nàng mang một ý khác Khiết Văn liếc nàng rồi kể:
- Ngày ấy, ôn tiểu thư bị Chấp Pháp Nhị Tướng bắt về Nghi Xương, ép gả cho Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn của Thiên Sư Giáo. Tiểu thư thà chết cũng không chịu.
Giáo chủ bèn phong tỏa võ công của nàng và cho uống Thất Hồn Tán, đưa lên thuyền hoa.
Nào ngờ, trong đêm trước lúc thuyền rời bến, giáo chủ phu nhân đã bí mật cho nàng uống một viên Thiên Độc Đan và giải tỏa kinh mạch. Bà còn dặn dò Tiểu Băng cách hành động để thoát thân. Vì vậy, khi thuyền hoa sắp đến Đại Vân Hà thì tiểu thư vung chướng đả thương Trương ân Tuấn rồi lao mình xuống nước tẩu thoát. Thiếp cũng phóng theo nhưng hai bên lạc nhau nên không biết tiểu thư đã đi đâu Phần thiếp trở về ôn Châu nương tựa biểu thúc là cha của Khiết Doanh. Nhưng thiếp có thể đoan chắc với tướng công rằng Thánh Nữ vẫn còn sống.
Tuấn Hạc mừng rỡ nói:
- Nàng còn sống là đủ rồi ! Ta sẽ lặn lội khắp vùng Giang Nam để tìm cho được.
Khiết Văn bỗng hỏi:
- Thiếp có nghe Thánh Nữ kể về nghi án Văn gia bảo. Chẳng hay tướng công đã giải quyết đến đâu rồi?
Chàng thở dài :
- Gia phụ đã thề độc rằng ông không phải là Văn Chí Khải, và hết mực yêu thương. Vì vậy, chuyện này tạm gác lại. Hiện nay, Văn gia bảo đang bị Thiên Độc Giáo uy hiếp, ta phải tìm người giúp đỡ mới mong địch lại. Hà nhị nương đã bảo ta đến cầu hôn thiếu môn chủ Biến Hình Môn nhưng ta không hề có ý ấy. Ta chỉ lợi dụng chuyến đi này để tìm Tiểu Băng và Vạn Bác Hồ Tinh mà thôi.
Khiết Doanh bẽn lẽn hỏi:
- Nếu chàng không chịu cưới Cổ Doanh Doanh thì làm sao cứu được Văn gia bảo?
Chàng thương nạp được bọn thiếp, sao không nhận luôn thiếu môn chủ? Sau này, ôn đại thư chắc cũng lượng thứ cho tướng công.
Tuấn Hạc khẳng khái đáp :
- Ta gặp hai nàng là do duyên nợ, ràng buộc bởi chữ nhân. Còn việc cầu hôn để lợi dụng, Văn mỗ không làm được.
Chàng chợt thắc mắc :
- Ta quên chưa hỏi vì sao bọn cao thủ Thiên Sư Giáo lại vây đánh hai nàng?
Khiết Văn sửng sốt:
- Họ là người của Thiên Sư Giáo đấy sao?
Gã họ Trương này quả là đốn mạt.
Khiết Doanh tiếp lời:
- Cách đây hơn chục dặm có một trấn lớn tên gọi Thanh Tuyền. Trưa nay, chị em thiếp đi ngang qua đấy thì gặp đoàn nhân mã của Tích Ngọc Lang Quân. Nghe nói gã mang lễ vật đến cầu hôn thiếu môn chủ bổn môn. Khi thấy thiếp gã buông lời chọc ghẹo. Bọn thiếp nhẫn nhịn bỏ đi, nhưng không ngờ gã lại cho người đuổi theo để vây bắt.
Khiết Văn nghiêm giọng:
- Tướng công không muốn kết duyên với Cổ Doanh Doanh cũng chẳng sao. Tuy nhiên, chàng phải giết gã họ Trương kia. Trước là báo thù cho Thánh Nữ, sau là phá vỡ âm mưu thống trị của Thiên Sư Giáo. Nếu họ liên kết được với Biến Hình Môn thì giang hồ sẽ đại loạn ôn tiểu thư đã từng nói với thiếp về dã tâm của Trương giáo chủ.
Tuấn Hạc tư lự:
- Ta sẽ vì Tiểu Băng mà giết cái gã bại hoại ấy Còn chuyện võ lâm ta không dám lạm bàn.
Đã đầu canh một mà trời vẫn mưa như trút nước. Gió lạnh lùa qua khung cửa không cánh của tòa phế miếu.
Tuấn Hạc đi tìm thêm củi nhưng trong miếu chẳng còn khúc gỗ nào. Đống lửa thoi thóp kia không đủ sưởi ấm cho hai nữ nhân.
Thế mà hai nàng còn rủ nhau ra tắm rửa dưới trời mưa. Thay áoxong, họ run lên cầm cập Tuấn Hạc cau mày trách:
- Hai nàng mới thọ thương, dầm mưa làm gì?
Khiết Doanh thẹn thùng đáp:
- Bọn thiếp là nữ nhân, không chịu được cảm giác dơ bẩn.
Họ trải áo choàng xuống nền gạch nằm ôm nhau mà run rẩy. Tuấn Hạc cũng ngã mình xuống bên kia đống lửa. Chàng luyện thần công đến lớp thứ bảy, cơ thể tự điều hòa lúc nào cũng bình thường, nên không nghe lạnh, Tiểu Bạch nhảy tót lên xà gổ cì nó chẳng bao giờ chịu nằm dưới đất.
Tuấn Hạc không ngủ được, thao thức suy nghĩ mãi. Chàng nghe tiếng rên của hai nữ nhân chạnh lòng nhớ đến kỹ niệm ngày nào.
Tiểu Băng đã đem tấm thân nóng ấm để sưởi cho chàng. Nàng quả là người nhân hậu hiếm có Nay hai nàng kia đã là tỳ thiếp của chàng, chẳng lẽ chàng lại để họ chịu cảnh giá lạnh như thế? Cơ thể họ, chàng đã đụng chạm đến thì còn giữ lễ nghi làm gì nữa?
Chàng lưỡng lự một lúc rồi bước sang phân khai hai người, chui vào giữa mà nằm. Họ thẹn thùng và sợ hãi vì tướng chàng đã động tình.
Tuấn Hạc xiết hai nàng vào thân mình rồi trầm giọng:
- Ta gặp Tiểu Băng năm mới mười lăm tuổi, nhỏ bé và yếu đuối. Nàng đã không nề hà lễ giáo, ôm ta vào lòng mà sưởi ấm. Hai nàng yên tâm ngủ đi.
Nói xong, chàng đẩy chân khí lưu chuyển khiến cơ thể nóng rực lên. Hai nàng nghe ấm áp rụt rè ôm lấy chàng mà thiếp đi.
Nhưng Khiết Doanh chỉ nhắm mắt mà không ngủ. Tử đôi mắt đẹp, gióng lệ sung sướng ứa ra. Nàng vẫn tự hào mình là người quốc sắc, vì hoàn cảnh mà lấy Tuấn Hạc nên lòng khiêm cưỡng. Nay thấy thái độ nhân hậu, quân tử của chàng, nàng vô cùng ngưỡng mộ. Mấy ai có thể ôm người ngọc trong lòng mà không nổi tà tâm?
* * * sáng ra, cơn mưa đã tạnh, vần thái dương ló dạng, chiếu những tia nắng ấm qua cửa miếu, như cười cợt hai nữ nhân kia. Họ đã thức giấc, thẹn thùng nhìn nhau.
Khi ba người rửa mặt xong thì Tiểu Bạch đã đi săn về Nó vác một con lươn non - đã bị bẻ gãy cổ - quăng xuống sàn miếu, thọt khét để kể công lao.
Hàn Khiết Văn mừng rỡ, xách ra sau miếu.
Nơi đây có chiếc lu mẻ miệng đầy ắp nước nhờ cơn mưa đêm qua. Nàng vung kiếm chặt đứt hai đùi sau, cạo lông, rửa sạch rồi đem vào miêu.
Tuấn Hạc và Khiết Doanh đã phá hai cánh cửa sổ cuối cùng. Đêm qua, họ không dám đốt vì sợ mưa gió tạt vào. Số gỗ ấy vừa đủ để nướng hai đùi lươn.
Khiết văn vừa chia thịt vừa hỏi:
- Tướng công chưa kể cho bọn thiếp nghe việc chàng rơi xuống vực thẳm mà không chết?
ôn tiểu thư đã tốn biết bao nước mắt vì tướng chàng đã vong mạng.
Tuấn Hạc bèn kể lại cho họ nghe. Kể cả cuộc chiến với Thiên Độc Giáo ở Động Đình Hồ .
Khiết Văn mừng rỡ nói:
- Không ngờ chàng lại là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y. Bọn thiếp may mắn được gởi thân cho bậc anh hùng.
Chàng ngượng ngùng đáp :
- Ngoài võ công, ta chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ nào cả. Vì vậy, khi đối phó với bọn tà ma sẽ chịu thiệt thòi.
Khiết Doanh nổi hào khí:
- Bọn tiện thiếp tuy bản lãnh không bằng tướng công nhưng lại thông thuộc mọi thủ đoạn của phe hắc đạo, sẽ tận lực giúp chàng.
Chỉ cần về đến Văn gia bảo, thiếp sẽ nói cho chàng biết Thiết Long kia là giả hay thực.
Tuấn Hạc đang rầu rỉ vì nghi án, nghe vậy lòng hoan hỉ vô cùng.
ăn xong, họ khởi hành ngay, chiều hôm ấy đã đến ôn Châu. Hai nàng dẫn Tuấn Hạc vào một trang viện đồ sộ ở cửa Tây. Họ bảo chàng đứng ngoài chờ một lát, để họ vào thưa chuyện với Hàn lão gia trước đã.
ôn Châu nằm ở sát bờ biển Triết Giang nên khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi. Tuấn Hạc đứng trên chiếc cầu gỗ sơn son trước cửa trang viện, thướng lãm phong cảnh.
Cơ ngơi này không có chiêu bài và được xây dựng theo một thiết kế lạ mắt. Tường vây chỉ cao đến ngực người lớn nhưng chung quanh lại có hào nước rộng hai trượng, thả sen và súng.
Làn nước trong vắt, nhìn rõ cả đàn cá chép đỏ hồng đang bơi lội. Cây cầu gỗ là lối xuất nhập duy nhất.
Cạnh bờ hào nước là hàng dương liễu rủ tóc soi bóng, khiến cảnh vật càng thêm phần mơ mộng.
Bỗng từ sau bức tường phía Nam, một chiếc thuyền con xuất hiện. Trên ấy có một cô gái tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc thắt bím. Tấm áo ngắn màu hồng nhạt kia chứng tỏ nàng không phải là tỳ nữ.
CÔ gái vừa chào, vừa thò cánh tay trắng nuốt, hái những đóa sen, miệng ngâm nga một điệu hát vui.
Chợt phát hiện Tuấn Hạc đang đứng tựa lan can cầu nhìn mình. CÔ gái thẹn thùng cúi mặt cho thuyền quay lại.
Tuấn Hạc nổi tính trẻ con, ngâm bài Việt Nữ Tử của Lý Bạch:
"Da Khê Thái liên nữ.
Kiến khách trạo La Hồi.
Tiếu nhập hà hoa khú.
Đương tu bất xuất lai.".
Tạm dịch:
"Gái da khê hái sen.
Thấy khách, hát quay thuyền.
Cười nấp vào sen lánh.
Thẹn thùng bước chăng lên.".
CÔ bé đi khuất rồi mà tiếng ca còn vọng lại.
Vừa lúc Hàn Khiết Văn bước ra đến, nàng vui vẻ hỏi:
- Tướng công cao hứng vì sắp được gặp nhạc phụ hay sao mà ngâm nga như vậy?
Tuấn Hạc ngượng ngùng chẳng biết đáp sao.
Chàng lầm lùi đi theo nàng vào trang.
Qua hết cây cầu nhỏ là một sân gạch rộng rãi, hoa cảnh rất nhiều. Cuối sân là một tòa khách sảnh hai tầng đồ sộ, đường nét giản dị, thanh thoát chứ không màu mè, cầu kỳ của đám trọc phú. Tuấn Hạc thầm ngưỡng mộ nhân cách của Hàn trang chủ.
Vào đến nơi, Tuấn Hạc thấy một lão nhân áo xanh lục tuần. Tướng mạo phương phi, tuấn tú, râu ba chòm đen nhánh, dù tóc đã hoa râm.
Cạnh ông là một phụ nhân tuổi sáu mươi, tóc bới cao, cài cây Phụng Đầu Thoa bằng bạc.
(Quy định của triều Minh: Thứ dân không được dùng vàng trang sức trên đầu.) Gương mặt của phụ nhân này rất giống Hàn Khiết Doanh, chỉ già dặn hơn. Còn Hàn Khiết Doanh thì đứng sau lưng bà ta.
Hàn Khiết Văn hớn hở giới thiệu:
- Thúc thẩm! Đây chính là ân nhân của bọn hài nhi.
Tuấn Hạc kính cẩn vòng tay:
- Tiểu sinh Văn Tuấn Hạc, bái kiến trang chủ và phu nhân.
Hai người ấy chăm chú nhìn chàng, nở nụ cười hòa dịu, Hàn trang chủ cười ha hả:
- Nghe danh nhị công tử đã lâu, không ngờ nay lại được hạnh ngộ. Lão phu đã nghe hai liễu đầu kia cáo tường sự việc, lòng vô cùng hoan hỉ. Giá mà công tử hạ cố, gọi ta và bà lão đây một tiếng nhạc phụ, nhạc mẫu thì còn gì sung sướng bằng.
Tuấn Hạc bối rối đến ngẩn người, chàng ấp úng thưa:
- Bẩm trang chủ! Tiểu sinh biết ơn lòng ưu ái của nhị vị. Nhưng . . . chưa tìm được ôn Tiểu Băng, kẻ hèn này không dám . . . !
Khiết Doanh đỏ mặt đỡ lời:
- Cha! Hài nhi đã nói tận tường, sao người còn ép uổng tướng công làm gì?
Hàn lão cười xòa:
- Phải phải ! Ta vì quá nóng ruột nhận rể quý nên lỡ lời.
Hàn phu nhân khen ngợi :
- Văn công tử chung tình như vậy, quả là thế gian hiếm có. Xin mời an tọa.
Tiểu vế được dọn ra, chủ khách thù tạc vui vẻ Vợ chồng trang chủ càng lúc càng mến mộ chàng công tử văn võ song toàn.
Khi bàn đến việc giết Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn để trả thù cho Tiểu Băng, Hàn trang chủ cau mày bảo:
- Đây là địa phận của Biến Hình Môn, họ Trương đến cầu hôn được coi là thượng khách.
Nay công tử giết y thì chẳng phải đã giá họa cho Cổ môn chủ hay sao? Thiên Sư Giáo có công đầu trong cuộc chiến đánh đuổi quân Mông Cổ, được triều đình sủng ái nên thế lực vô cùng hùng mạnh, Biến Hình Môn chẳng cách nào địch lại được. Vì vậy, theo ý lão phu là công tử hãy tạm gác ân oán, tìm cách hạ nhục để y bẽ mặt bỏ chạy khỏi ôn Châu là đủ roi.
Tuấn Hạc cung kính vâng lời. Hàn Khiết Văn bỗng góp ý:
- Hiện nay cả Thiên Độc Giáo và Thiên Sư Giáo đều nuôi mộng xưng hùng, sao ta không bày kế ly gián để họ tương tranh? Nhị phu nhân của Thiên Độc Giáo - Giang Lăng Thần Nữ - có một người con riêng tên là Doãn Tự Vân Gã hai mươi sáu tuổi và được phong là thiếu giáo chủ, tính tình háo sắc không kém họ Trương. Nếu Văn công tử hóa trang làm Doãn Tự Vân mà đánh đuổi Trương ân Tuấn thì hai giáo phái kia sẽ hiểu lầm nhau. Lúc ấy, Thiên Độc Giáo sẽ chẳng còn thời gian mà uy hiếp Văn gia bảo nữa.
Hàn trang chủ vỗ đùi khen phải. ông bảo gia nhân đi điều tra xem Tích Ngọc Lang Quân hiện đang ở đâu. Gã đã đến được mấy hôm nhưng lại đưa thiếp hẹn đến ngày sáu tháng bảy này mới đế bái kiến và bàn chuyện hôn sự - ngày tốt nhất trong tháng - nghĩa là còn hai hôm nữa.
Trong thời gian chờ đợi, gã thản nhiên thăm thú các kỹ viện ở ôn Châu. Gã cho rằng Biến Hình Môn không dám từ chối và sẽ rất vinh hạnh được kết thông gia với Thiên Sư Giáo.
(Quả thực là Thiên Sư Giáo - tức Đạo giáo - đã có công rất lớn với Chu Nguyên Chương.
Mấy chục vạn nông dân nghèo khổ - theo họ Chu kháng nguyên - đều là tín đồ Thiên Sư Giáo. Bản thân giáo chủ Trương Tỳ Vân cũng là cận tướng của họ Chu. Khi đại công cáo thành, Chu Nguyên Chương lên ngôi thiên tử liền ban chức và phong chức tước cho những thủ hạ dầy công hạn mã. Nhưng Trương giáo chủ hiểu rõ bản chất tiểu nhân hẹp hòi, phản phúc của Chu Nguyên Chương nên không nhận sắc phong. ông chỉ lãnh mấy vạn lượng vàng về Giang TÔ xây dựng tổng đàn, phát triển Thiên Sư Giáo.
Sau này, Minh Thái TỔ lần lượt giết những người đã từng theo mình dựng nghiệp. Lúc ấy, bá quan mới khâm phục đầu óc của Trương giáo chủ. Tổng đàn của Thiên Sư Giáo nằm ở huyện Cú Khúc, tỉnh Giang Tô. Vào thời Nam triều đạo sĩ Đào Hồng Canh đã tưng xây đạo quán trên núi Cú Khúc. Tương truyền trước đó - đời Tây Hán Canh Đế - ba anh em Mao Doanh, Mao Cổ, Mao Lý đã tu luyện thành tiên ở núi này, nên được tôn là tổ sư. Gọi chung là Tam Mao Chân Quân. vì vậy núi Cú Khúc cũng được đổi thành Tam Mao Sơn (gọi tắt là Mao Sơn) phái này còn có tên là Thượng Thanh Phái.
Trương Tỳ Vân đến núi Cú Khúc, xây một tòa Đạo Cung thật vĩ đại, gọi là Thượng Thanh Cung. Trên đỉnh - chung quanh sườn núi là hàng trăm kiến trúc để các giáo đồ thân tín cư ngụ. Họ là những cao thủ Đạo Giáo đã từng theo ông chiến đấu với quân Nguyên.
* * * Tối hôm ấy, bọn gia nhân về báo rằng Tích Ngọc Lang Quân đang trọ trong Chiết Giang đệ nhất khách điếm, cùng với mười bốn thủ hạ.
Hàng ngày, họ Trương la cà khắp chốn yên hoa, lâu quá, đổ trường. Muốn gặp chẳng phải chuyện khó.
Sáng hôm sau, Hàn Khiết Doanh dựa theo bức họa chân dung - mà Khiết Văn đã vẽ ra - hóa trang Tuấn Hạc thành thiếu giáo chủ Thiên Độc Giáo Doãn Tự Vân.
Bản thân hai nàng cũng dịch dung thành hai gã hán tử nhỏ thó, tháp tùng Tuấn Hạc.
Gần trưa, trinh sát cho biết Trương ân Tuấn đang ăn nhậu trên tòa ôn Châu đại tửu lâu.
Ba người lập tức khởi hành, ngay hông Tuấn Hạc giờ đây có thêm một thanh trường kiếm.
Bạch Viên phải ở nhà để bảo toàn lai lịch.
Để đóng vai họ Doãn, Tuấn Hạc phải cạo sạch bộ râu mép cho đúng dung mạo của gã.
BỘ y phục hai màu trắng xanh diêm dúa và chiếc quạt lụa nan xương tạo ra vẻ hào hoa phong nhã. Gia dĩ Doãn Tự Vân cũng rất anh tuấn Ba người ung dung xuống ngựa, bước lên lầu trên của tửu lâu. Họ chọn một bàn cách bọn Trương ân Tuấn không xa. Họ Trương đang mãi mê chọc ghẹo ả ca nhi xinh đẹp nên không để ý đến.
Aû ca nhi đang ôm trong lòng một cây đàn tỳ bà có bốn dây. Loại đàn này được truyền từ Thiên Trúc vào miền Bắc Trung Hoa từ thời nhàTấn. Và đến thời Bắc triều thì truyền xuống miền Nam. Còn có một kiểu đàn Ngũ Huyền tỳ bà nữa, nhưng đã thất truyền từ đời Tống.
So dây xong, ả gầy đàn, hát bài Tử Sơn Hoa Tử của Nam Đường Trung Chủ Lý Cảnh:
"Hàm Thiều Hương Tiêu, Thúy Diệp tàn.
Tây phong sầu khởi lục ba gian.
Hoàn dữ thiêu quang cộng tiều tụy.
Bất khan khan.
Tế vũ mộng hồi kê tái viễn.
Tiêu lâu xung triệt ngọc sinh hàn.
Đa Thiều lộ Châu hà hạn hạn.
Y lan can.".
(Dịch thơ) "Hương nhạt sen phai lá lục tàn.
Gió thương sầu gợn bóng hồ lan.
Cùng bóng Thiều quang chung ảm đạm.
Ngắm khân đang.
Mưa nhỏ mộng hồn về ải quốc.
Lầu con, sênh lạnh, tiếp tiêu ngừng.
Bấy nhiêu nước máy bao nhiêu hận.
Dựa lan can.".
Giọng hát của nàng trong trẻo nhưng ảo não, diễn tả được hết nổi buồn vời vợi của lời thơ, nhưng Tích Ngọc Lang Quân lại không thích như vậy gã cau mày mắng:
- Đang lúc bổn công tử vui vẻ, khoan khoái thế này, sao ngươi lại hát cái bài buồn như đưa đám đó?
Tuấn Hạc đang tán thướng tài nghệ của ả ca nhi nên phật lòng trước thái độ dung tục của họ Trương. Chàng lạnh lùng hừ nhẹ, nhưng khi lọt vào tai Trương ân Tuấn thì như tiếng sấm. Gã giật mình và điên tiết nhìn quanh rồi hậm hực hỏi:
- Kẻ nào vừa làm bẩn tai ta vậy?
Tuấn Hạc đứng lên, ra vẻ khinh miệt:
- Hạng phàm phu tục tử như ngươi làm sao thướng thức được cái thần diệu của thi nhạc?
Bài Tử Sơn Hoa Tử kia chính là kiệt tác văn chương thời nhà Đường. Tài cầm ca của vị cô nương đây cũng rất tài hoa, thế mà ngươi còn chê bai, thật đáng gọi là lỗ tai trâu.
Tích Ngọc Lang Quân giận tím mặt, nhưng là người gian hiểm nên gã phải hỏi lai lịch trước đã :
- Ngươi hãy xưng danh tính, kẻo không lại chết oan.
- Ta là thiếu giáo chủ Thiên Độc Giáo Doãn Tự Vân.
Trương ân Tuấn ngửa cổ cười vang:
- Té ra ngươi là em vợ hụt của ta! Bổn công tử là thiếu môn chủ Thiên Sư Giáo đây.
câu nói của gã đánh động mối thương tâm trong lòng Tuấn Hạc. Vì gã mà Tiểu Băng trôi dạt phương nào không rõ. Chàng cười nhạt:
- Ngươi chỉ là tên dâm tặc bại hoại, đâu có dây mơ rễ má gì với bổn thiếu gia?
Trương ân Tuấn đỏ mặt vì nhục nhã, quát vang :
- Giết hắn cho ta.
Mười bốn tên thủ hạ của gã lập tức xông đến vây chặt và tấn công.
Hai nữ lang chẳng hề khách sáo, tung ngay đòn sát thủ. Khiết Văn rải độc phấn và Khiết Doanh rắc kim vàng. Đòn phủ đầu này đã loại ngay được bốn tên.
Tuấn Hạc thì rút kiếm lao vào hai gã trước mặt. Chiêu Bất Kiến Bạch Đầu - trong pho Cuồng Kiếm - để lại hai lỗ trên huyệt Mi Tâm của chúng. Cả hai ngã xuống và chết khi tóc vẫn còn xanh.
Trương ân Tuấn chứng kiến chiêu kỳ tuyệt kia, giật mình kinh hãi. Nhưng gã cũng rất tự hào về bản lãnh của mình nên xông vào ngay.
Nếu không, đối phương sẽ giết chết thủ hạ của gã Tích Ngọc Lang Quân cũng là một tay kiếm sĩ lợi hại. Thanh kiếm của gã cũng hoa lệ, diêm dúa như chủ nhân. VỎ kiếm bằng bạc, cẩn chín viên lam ngọc. Chuôi kiếm bằng vàng khối, khắc hoa văn tinh xảo. Lưỡi kiếm được đúc bằng thép Miến Điện, tỏa ánh xanh biếc. Với cây Kim Ngân bảo kiếm này, Trương ân Tuấn đã giết gần trăm cao thủ, dương danh thiên hạ - khi tuổi mới ba mươi.
Gã được chân truyền pho Thái Thanh Kiếm Pháp của Trương giáo chủ, từ ngày xuất đạo chưa hề gặp đối thủ xứng tay nên không khỏi mục hạ vô nhân.
Trương ân Tuấn gầm lên, bốc cao hơn trượng, bủa lưới kiếm xuống đầu đối...