Thuyết thê bị trúng độc, tại hạ phải đến Tây Phương Tự để mượn Hàn Ngọc Thiền trượng về giải cứu. Nàng chỉ còn sống có hơn hai chục ngày nữa thôi.
Huệ Vân vội nói:
- Vậy tướng công hãy lên đường ngay đi Bần ni một mình trở lại Hán Trung cũng được .
Tuấn Hạc lắc đầu:
- Không được đâu! Lão Vương kia đã xưng là Hoàng Thổ Chi Vương tất thế lực bao trùm mấy tỉnh Tây Bắc này. Ni cô chỉ mới phục hồi hai thành công lực, tại hạ chẳng yên tâm chút nào cả. Hay là ni cô theo tại hạ đến Lục Bàn Sơn? Xong việc, tại hạ sẽ nhờ bằng hữu là VÔ Giới hòa thượng hộ tống ni cô về Hán Trung?
Huệ Vân bẽn lẽn ưng thuận:
- Thí chủ đã có dạ quan hoài, bần ni xin tuân mệnh.
Mặt hoa bỗng thoáng hồng, nàng ngượng ngừng nói:
- Trong đại hội Hoa Sơn. Đào Hoa Khê Chủ đã nói với mọi người rằng công tử là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y tiền bối. Lúc về đến núi Hằng Sơn, chưởng môn sư tỷ đã tiết lộ rằng Công Tôn tiền bối chính là Tiêu Dao Thượng Nhân của phái Nga Mi. Như vậy, đối với Hằng Sơn phái cũng có uyên nguyên. Bần ni mong thí chủ xưng hô như huynh đệ đồng môn có được không?
Tuấn Hạc giật mình, không ngờ rằng ân sư của mình lại là cao thủ của Nga Mi.
Chàng ngượng ngừng gật đầu. Huệ Vân mừng rỡ vòng tay:
- Tiểu muội bái kiến sư huynh"
Huệ Vân sửa sang xiêm y và mái tóc giả trên đầu rồi cười bảo:
- Sư huynh thấy không? Với trang phục này mà cứ gọi là ni cô thì khó nghe biết chừng nào "
Tuấn Hạc thấy ánh mắt nàng chan chứa niềm vui và nụ cười đầy mị lực, vội quay sang chỗ khác.
chàng bước ra gọi Lật Tử Cái:
- Chiếc xe này không nên lưu lại, các hạ hãy phi tang dúm ta và vào thành tìm phân đà chủ. Giờ ta và Huệ Vân sư muội phải lên đường ngay.
Lật Tử Cái mau mắn tháo con ngựa.
Lão xin phép ra ngoài và trở về với một bộ yên cương cũ kỹ nhưng còn rất tốt.
Gã cung kính tiễn đưa:
- Trưởng lão thượng lộ bình yên.
* * *
Lục Bàn Sơn là dãy núi nằm giữa ranh giới Tây Hạ và Cam Túc. Sườn Bắc thuộc đất Hồi, sườn Nam thuộc đất Cam.
Tuấn Hạc cùng Huệ Vân đi chếch xuống hướng Tây Nam, vào địa phận Cam Túc. HỌ ghé vào một trấn lớn dọc đường để mua y phục cho Huệ Vân. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của phái Lạt Ma nên chẳng tìm đâu ra được tăng bào. Huệ Vân đành phải bằng lòng với những bộ võ phục may sẵn. Nàng dịu dàng thố lộ:
- Sư huynh! Lúc chưa xuất gia, tục danh của tiểu muội là Mạc ái Luân.
Tuấn Hạc hiểu ý:
- Ta sẽ gọi nàng là Mạc sư muội.
Ba ngày sau, hai người mới đến được ngọn cực Tây của rặng núi Lục Bàn. Tây Phương Tự nằm phơi ngói đỏ trên sườn nul.
Thấy ngay chân núi có ngôi quán lá, treo ngọn tửu kỳ phất phới. Tuấn Hạc rủ Huệ Vân đến đấy gởi ngựa. Cách vài trượng đã nghe tiếng VÔ Giới oang oang:
- Chủ quán đâu? Phật gia gọi thêm vò rượn nãy giờ sao không thấy bưng ra?
CÓ tiếng người đáp lại:
- Đại sư thông cảm cho, bổn quán ít vốn mà đại sư thiếu đến ba mươi lượng, tiểu nhân chẳng thể cho ghi sổ thêm nữa.
Tuấn Hạc mỉm cười, kéo sụp chiếc nón rộng vành xuống, che khuất gương mặt rồi bước vào.
chàng nhẹ nhàng ngồi xuống một bàn trong góc ngoài. Huệ Vân hỏi nhỏ:
- Sư huynh định bỡn cợt với VÔ Giới hòa thượng đấy ư?
Chàng gật đầu, lấy mặt nạ mang vào rối cao giọng:
- Chủ quán đâu, cho lão phu một vò rượn lâu năm và một mâm thịnh soạn.
Lão chủ quán dạ vang, bưng ngay vò rượn ra trước. Lão cười giả lả:
- Đây là vò rượn Lan Sinh cất ba mươi năm, xin đại nhân thưởng thức thử xem.
Lúc này, Tuấn Hạc mang dung mạo của một lão nhân lục tuần. Chàng gật đầu mở nắp, mùi rượn bay ra thơm ngát, chàng giả vờ than:
- Hảo tửu! Không ngờ vùng đất hoang vu thô lậu này lại có được vò rượn ngon thế này. Chẳng lẽ không ai biết thưởng thức?
Chàng róc ra uống liền ba chung, tấm tắc khen mãi. VÔ Giới hòa thượng tròn mắt nhìn, nuốt nước miếng liên hồi. Lão điên tiết đập bàn mắng chủ quán:
- Lão có rượn ngon sao không bán cho bần tăng, để người ngoài đến đây nhiếc móc dân đất Cam không biết thưởng thức?
Lão chủ quán dường như có chỗ dựa nên không hề sợ hãi:
- Phương trượng Tây Phương Tự đã cấm tiểu nhân bán rượn cho đại sư, thiếu như thế cũng là quá lắm rồi.
Nghe nhắc đến Tây Phật, VÔ Giới xìu ngay xuống:
- Thôi được! Bần tăng không dám đòi hỏi nữa! Đành phải giới tửu vậy.
Gương mặt thiểu não của lão khiến Huệ Vân bật cười. VÔ Giới bực mình quắc mắt nhìn nàng. Lão giật mình nhận ra nữ lang kia rất quen thuộc.
Huệ Vân vui vẻ gọi:
- Mời đại sư cùng uống cho vui .
VÔ Giới khoan khoái bước đến, ngồi ngay xuống ghế đối diện. Lão sững sờ khi nghe lão già kia nói:
- Đã thích uống rượn sao không trở về Thiên Ma Cốc làm cốc chủ?
Hòa thượng vui mừng khôn xiết, cười ha hả, bước đến ôm lấy Tuấn Hạc:
- Té ra là Văn thí chủ! Hòa thượng ta gặp may rồi.
Lão quay sang Huệ Vân ngập ngừng hỏi:
- Còn nữ thí chủ đây là ai mà bần tăng không nhớ ra?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Người chính là ni cô của phái Hằng Sơn vô Giới lại cười ha hả, giơ ngón cái khen:
- Văn thí chủ giỏi thật! Quyến rũ được cả đệ tử Phật môn.
Tuấn Hạc bẽ bàng nói ngay:
- Đại sư nên cẩn ngôn.
VÔ Giới thấy ánh mắt chàng có sắc giận, còn mặt Huệ Vân đỏ như gấc chính, biết ngay mình đã lỡ lời. Lão vội nói chữa thẹn:
- Bần tăng biết mình nói bậy, tự phạt mình ba chén lớn.
Lão uống xong nghiêm giọng hỏi:
- Vì sao nhị vị thí chủ phải lặn lội đến tận chốn này?
Tuấn Hạc rầu rỉ nói :
- Thuyết thê ôn Tiểu Băng vẫn còn sống nhưng lại bị độc thủ của ôn giáo chủ. Tại hạ muốn lên chùa Tây Phương mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng về chữa trị cho nàng.
VÔ Giới cười xòa:
- Việc ấy không khó! Gia sư cũng rất muốn gặp mặt thí chủ. Nhưng giờ là lúc người nhập định, chúng ta hãy uống hết vò rượn này rồi hãy lên.
Trong thâm tâm, VÔ Giới vẫn coi Tuấn Hạc là bằng hữu vong niên của mình. Lão yêu mến chàng và rất mừng được tái ngộ.
Ba người trò chuyện rất vui vẻ. VÔ Giới nghe kể đến Hoàng Thổ Chi Vương, nhăn mặt bảo:
- Lão quỷ ấy đã từng đến đây mời gia sư về làm phó vương, cùng mun bá nghiệp. Gia sư lựa lời từ chối và khi lão đi rồi, người thở dài bảo: người này ngộ kỳ duyên, bản lãnh đáng xưng là vô địch.
Lão ta lại nuôi dã tâm quá lớn, e rằng võ lâm Trung Nguyên sẽ chẳng được yên thân.
Tuấn Hạc nhíu mày hỏi thêm:
- Đại sư có biết danh rành của lão không?
- Gia sư có tiết lộ điều ấy. Lão ta là người Đột Quyết, họ Hướng tên Y Xích.
Tuấn Hạc gọi lão chủ quán tính tiền.
Chàng đưa thêm ba chục lượng để trả món nợ của VÔ Giới.
Lão cười hề hề:
- Nếu biết đại sư đây có bằng hữu là bậc đại phú thế này, dẫu thiếu bao nhiêu tiểu nhân cũng cho cả.
Ba người kéo nhau lên núi, Tây Phật đã nhập định xong, bước ra tiếp khách.
Huệ Vân tỏ lòng kính trọng nên tháo tóc giả quỳ xuống ra mắt:
- Hằng Sơn mạt học Huệ Vân bái kiến Thần Tăng "
Tuấn Hạc cũng gỡ mặt nạ, thi đại lễ.
Tây Phật vóc người nhỏ bé, râu dài đến bụng, da dẻ hồng hào như trẻ thơ. ông cười khà khà mời hai người an tọa.
Tây Phật ngắm nhìn dung mạo của đôi nam nữ rồi thở dài:
- Huệ Vân dạo hữu! Lão nạp xin tặng mấy câu kệ thế này:
"Phật độ hữu duyên nhân, Hồng nhan nhập không môn.
Nhược đông thời thiệp xuyên, Nhất niệm tồn nan quá"
Khứ chi ! Khứ chi ! " (Dịch thơ) "Phật kia độ kè hữu duyên, Má hồng nương tựa cửa tuyền khó xong.
Sang sông giữa tiết trời đông, Lòng còn vương vấn đừng mong tới bờ.
Đi thôi! BỎ thôi!" Huệ Vân nghe xong biến sắc, không hiểu Tây Phật muốn khuyên mình cố gắng tu hành hay hoàn tục. Chữ khứ kia vừa có nghĩa đi tới, vừa có nghĩa vứt bỏ đi Huệ Vân ấp úng nói :
- Bần ni không hiểu diệu ý của Thần Tăng; Tây Phật mỉm cười :
- Chẳng cần phải thấu hiểu. Cái gì cần làm thì cứ làm.
Lão quay sang bảo Tuấn Hạc:
- Thí chủ đột ngột đến đây, chắc là có việc cần?
- Bẩm Thần Tăng! Vãn sinh muốn mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng về Sơn Tấy để cứu thuyết thê .
Tây Phật tủm tỉm cười :
- Vật ấy vốn của thí chủ đòi lại giùm, lão nạp đâu dám tiếc.
Lão bước vào phòng lấy Ngọc Trượng ra, trao cho Tuấn Hạc rồi bảo:
- Lão nạp nghe nói vật này còn là chìa khóa mở cửa một kho tàng nào đấy! Nếu có cơ hội, thí chủ hãy tìm cho được kho tàng kia.
Tuấn Hạc gượng cười :
- Vãn sinh không hề có tham vọng ấy.
Tây Phật nghiêm trang bảo:
- của cải nằm chất trong kho chỉ là vật vô dụng. Nhưng nếu dùng để chẩn tế cho dân nghèo thì cũng là cách tạo phúc.
Tuấn Hạc thức ngộ ra, cúi đầu nhận mệnh. Chàng cáo từ đi ngay.
Tây Phật hỏi bát tự của Tiểu Băng, bấm tay tính toán một hồi rồi trấn an:
- Mạng của người này rất lớn, tuổi thọ trên tám mươi, chẳng thể nào đoản mệnh được Thí chủ cứ thong thả mà đi .
Tây Phật đã ngoài trăm tuổi, tinh thông cả phật pháp lẫn dịch số, được xem là đệ nhất kỳ nhân đương đại. Vì vậy, Tuấn Hạc rất vui mừng, yên tâm ở lại một đêm.
Sáng hôm sau, lúc tiễn đưa Tuấn Hạc xuống núi, VÔ Giới gãi đầu nói với Tây Phật:
- Sư phụ! Hàn Ngọc Thiền Trượng là bảo vật trấn sơn, đồ nhi xin đi theo bảo vệ và mang về. Văn thí chủ đây gia vụ đa đoan, chắc không rảnh rỗi để lặn lội ngàn dặm đem trả cho chúng ta.
Tây Phật mỉm cười :
- Muốn đi thì cứ thu xếp hành lý, hà tất phải viện cớ quanh co như vậy?
VÔ Giới mừng rỡ chạy vào trong xách tay nải ra, quỳ xuống lạy tạ rồi đi theo Tuấn Hạc. Xuống đến chân núi, chàng bảo lão:
- Phiền đại sư hộ tống Huệ Vân sư muội về Hán Trung, hẹn gặp nhau ở Hằng Sơn Huệ Vân lắc đầu cười bảo:
- Tiểu muội không nhất thiết phải về Hán Trung nữa. Ơø đấy chỉ còn vài người bà con xa mà thôi. Ba chúng ta về cả Hằng Sơn cho thuận đường.
VÔ Giới hoan hỉ nói:
- Té ra vị ni cô này trong lòng có tâm sự gì nặng nề nên mới định đi chơi một chuyến cho khuây khỏa?
Huệ Vân đỏ mặt, cúi đầu.
Nàng không ngờ lão hòa thượng quái dị này lại đoán ra tâm tình của mình.
Quả thực là từ sau đại hội Hoa Sơn, lòng nàng không còn tĩnh lặng như trước nữa. Đơn Thu Cốt đã cứu mạng nàng và để lại những cảm giác khó quên. Nàng nhớ mãi cảnh tượng mình nằm trong vòng tay một nam nhân, dù khổ công tụng niệm cũng chẳng thể xóa mờ ký ức.
Huệ Hà sư thái thấy nàng gầy đi nhiều và trầm lặng khác thường, bà hiểu ngay tâm sự, dịu dàng nói rằng:
- Sư muội được tạo hóa ban cho một nhan sắc thiên kiều bá mị, tất không phải là người của phật môn. Sư muội hãy hạ sơn ngao du một thời gian xem sao. Nếu tìm được người ấy thì bất tất phải về núi nữa.
Chính vì vậy, Huệ Vân mới rời Hằng sơn bôn tẩu giang hồ và được biết kẻ giảdạng Đơn Thu Cốt và Doãn Tự Vân chính là Văn nhị công tử của Văn gia bảo. Sau đó nàng lại nghe chàng tự vẩn vì toàn gia bị thảm tử.
Huệ Vân đau đớn định trở về Hán Trung thăm mộ song thân một chuyến rồi trở lại Hằng Sơn tu niệm. Nào ngờ, họa trung đắc phúc, tuy bị Tầm Hoa sứ giả bắt cóc, nhưng lại tái ngộ người trong mộng.
Được Tuấn Hạc cứu mạng lần thứ hai, mối tình kia càng sâu nặng. Nhưng Huệ Vân tu hành từ nhỏ nên sợ hãi chính tình yêu của mình. Nàng không dám và cũng không biết cách thổ lộ.
Hồi 12 : Kiếm hạ dung Hoắc thị Hoàng Thổ khấp hồng nhan
Đường về không đến nỗi gian khổ như lúc ra đi. Thứ nhất là nhờ có lời tiên đoán của Tây Phật. Thứ hai, VÔ Giới rất thông thạo đường lối nên đã tránh được những địa hình gian nan, trắc trở. Ba người đi chếch lên hướng Đông Bắc, tám ngày sau còn cách thành Đông Thăng hơn trăm dặm.
CÓ VÔ Giới và Huệ Vân đồng hành, đường thiên lý như ngắn lại và nỗi ưu tư trong lòng Tuấn Hạc cũng vơi đi. Nắng hạ vẫn gay gắt nhưng thỉnh thoảng cũng có những cơn mưa rào ập đến, tắm mát cho lữ khách, đồng thời cũng làm đường đi thêm lầy lội, dơ bẩn.
Mặt đất Hoàng Thổ bị xói mòn, chia cắt thành hẻm sâu và gò đống lởm chởm nên việc canh tác rất khó khăn. Vì vậy, vùng này hoang vu, vắng bóng dân cư, đương nhiên hàng quán cũng thiếu.
Mỗi lần đến được chỗ sầm uất, bọn Tuấn Hạc phải mua thật nhiều lương khô, để dành cho đoạn tiếp theo. HỌ thường xuyên phải ngủ lại dọc đường, những lúc ấy Huệ Vân có dịp trổ tài bếp núc, chăm sóc cho hai nam nhân kia. Nàng là ni cô, vô Giới là sư nên nàng cũng gọi lão bằng sư huynh.
Huệ Vân có nước da trắng như tuyết, nay dãi nắng dầm mưa, đỏ rực lên và cháy nạm. VÔ Giới cười khà khà bảo:
- Tội nghiệp cho sư muội, theo bọn ta làm gì cho mặt hoa tàn tạ thế kia?
Huệ Vân dịu dàng bảo:
- Thân tứ đại chỉ là vật giả, trước sau gì cũng mất đi, hà tất phải đau lòng vì xấu đẹp?
VÔ Giới gật gù:
- Đúng vậy, nhan sắc kia gởi vào chốn thiền môn cũng như vàng bạc chôn sâu dưới lòng đất, có sáng hay mờ cũng thế thôi Vầng dương đã sắp khuất sau rặng núi cuối trời Tây mà vẫn chưa thấy mái nhà nào, Tuấn Hạc thở dài:
- Đêm nay Huệ Vân sư muội lại phải ngủ ngoài đồng trống nữa rồi.
Nghe giọng quan hoài, Huệ Vân sung sướng đáp :
- Đa tạ sư huynh đã quan tâm, nhưng tiểu muội đã quen rồi, chẳng hề thấy cực khổ chút nào cả.
ánh mắt nàng bày tỏ trọn vẹn mối chân tình, tràn ngập niềm hạnh phúc và chan chứa yêu thương. Tuấn Hạc cố nén tiếng thở dài, thầm trách trời già cứ đẩy đưa mình vướng vào lưới tình.
Chàng đưa mắt nhìn về phía trước, giật mình phát hiện một lá cờ vàng to bằng hai mảnh chiếu đang bay phần phật, thấp thoáng bốn chữ Hoàng Thổ Chi Vương - cách đấy chừng hai mươi trượng.
VÔ Giới cũng đã nhìn thấy, cười hì hì bảo:
- Chúng ta sắp được đánh một trận sướng tay.
Tuấn Hạc trầm giọng:
- Chỉ lo cho Huệ Vân thôi. Hai ta kẹp nàng ở giữa rồi phá vòng vây thoát đi.
VÔ Giới cố bám víu một chút hy vọng:
- chưa chắc họ đã nhận ra chúng ta.
Huệ Vân buồn bã nói:
- Văn sư huynh cần phải sống để đem Phật Trượng về cứu Tiểu Băng. Xin đừng để ý đến tiểu muội.
Tuấn Hạc cười mát:
- Tử sinh hàn mệnh! Làm việc nghĩa chẳng thể cân nhắc thân sơ. Nếu ta vì Tiểu Băng mà bỏ nàng, cố cứu lấy mạng mình thì sau này tất cũng chẳng thể yên tâm làm người.
Dứt lời, chàng thúc ngựa đi nhanh hơn, khẳng khái tiến đến vùng hiểm địa, đoạn đường phía trước chính là một hẻm cạn, do mặt đất bị nước xói mòn tạo nên. Hai bên là gò đống lổn nhổn, và toán cao thủ của Hoàng Thổ Thành đứng ở trên ấy.
Năm mươi tên cao thủ kia đều mặc y phục màu nâu vàng, tiệp với màu đất Hoàng Thổ dưới chân, chiếc khăn bịt đầu cũng vậy, hông họ đeo đao lủng lẳng và cung tiễn sẵn trên tay.
Trên gò đất cao nhất ở mé hán có một cây vu cao lớn um tùm. Đại kỳ cắm dưới bóng mát của tàn cây, và cạnh đấy là một hán tử áo trắng, khăn buộc tóc màu vàng kim. VÔ Giới nhận ra lai lịch của hán tử, quay sang bảo Tuấn Hạc.
- Gã này là cận vệ của Hoàng Thổ Vương Gia, đã từng theo lão ta đến Lục Bàn Sơn. Để bần tăng đối đáp với y, nhị vị hãy dừng lại ở đây, đừng đi vào hẻm vực kia.
VÔ Giới thúc ngựa lên trước, cười ha hả hỏi:
- CÓ phải tôn giá là Truy Mệnh Kiếm Sứ dưới trướng Hướng Vương Gia đấy không? Sao lại đến đây phơi nắng thế này?
Hán tử áo trắng cười nhạt :
- Bổn sứ giả chờ đợi để đưa bọn ngươi về chốn suối vàng đấy.
VÔ Giới cười khanh khách:
- Bần tăng là hảo hán của Diêm Vương nên thường lui tới chốn hoàng tuyền nên có lạ lùng gì? Tôn giá cứ đi một mình đi.
Tuấn Hạc đứng hơi xa nhưng nhờ nhãn lực sắc bén nên cũng nhìn rõ dung mạo gã áo trắng. Tuổi y độ bốn mươi, vóc dáng cao gầy, da mặt tái xanh. Đáng sợ nhất là dôi mắt dài nhỏ nằm dưới cặp lông mày rậm, giao nhau ở mi tâm, nối lại thành một đường liền lạc. Tử đôi mắt híp như hai sợi chỉ ấy, luồng nhãn quang tàn độc bắn ra khiến người đối diện phải nổi gai ốc. Y lại không có râu, chiếc cằm bạnh và vành miệng rộng càng tăng phần tàn nhẫn. Giờ đây, đôi môi mỏng kia đang rít lên:
- Đừng lắm lời! NỂ mặt Tây Phật, bổn sứ giả tha mạng cho lão, hãy quay về Lục Bàn Sơn đi.
Gã dơ cao kiếm chỉ về phía Tuấn Hạc:
- Tiểu tử kia lại đây! Ngươi đã có gan giết Tầm Hoa sứ giả, sao giờ lại núp bóng lão trọc này?
Tuấn Hạc thúc ngựa tiến lên, điềm đạm hỏi:
- Tôn giá định dùng số đông để uy hiếp hay đơn đấu. Tại hạ nghe VÔ Giới đại sư bảo rằng tôn giá là đại cao thủ Hoàng Thổ Thành, chẳng hiểu có dám cùng tại hạ tỉ đấu công bằng hay không?
Tuấn Hạc là người chính trực, chẳng thích dùng mưu mẹo. Nhưng nay, đứng trước cảnh hiểm nghèo đành phải vận dụng tâm cơ, dùng kế khích trướng.
Mẹo này chẳng có gì là xâu xa, huyền diệu, nhưng lại luôn đắc dụng với những kẻ tự cao, tự dại. Khuất Bạch Thành mắc mưu này thì Truy Mệnh Kiếm Sứ cũng không tránh khỏi. Trong võ lâm, chẳng có mấy ai không lụy bởi thanh danh. Vì vậy, hán tử áo trắng cười ngạo nghễ đáp ngay:
- Tiểu tử ngươi tưởng giết được Tầm Hoa sứ giả là có thể diệu võ dương oai với Hoắc mỗ được sao? Nếu ngươi thắng ta, dù chỉ nửa chiêu cũng có thể an toàn thượng lộ.
Dứt lời, gã tung mình rời gò đất, nhẹ nhàng hạ thân xuống đứng đối diện với Tuấn Hạc. Chàng nhận ra không một hạt bụi nào bay lên, thầm khen thưởng bản lãnh của đối phương.
Tuấn Hạc truyền âm bảo VÔ Giới:
- Đại sư hãy lui lại, đứng cạnh Huệ Vân. Nếu tại hạ bại, tức tốc đưa nàng trở lại tìm đường khác mà đi.
VÔ Giới rầu rỉ làm theo lời chàng.
Tuấn Hạc xuống ngựa, rút kiếm thủ thế.
Truy Mệnh Kiếm Sứ ập đến tấn công ngay để chiếm tiên cơ. Thân pháp của hắn nhanh như ánh chớp và đường kiếm cũng cực kỳ hiểm ác, phong tỏa bảy yếu huyệt cùng một lúc.
Tuấn Hạc thận trọng dùng Thiên Trù Trướng MỘ Yên đón đỡ và phản kích lại.
Hai thanh trường kiếm xoắn lấy nhau, vang lên những tiếng ngân dài. Tốc độ chuyển động ngày càng tăng khiến bụi vàng bốc lên che mờ hai đối thủ. HỌ đảo lộn, lên xuống, ập vào rồi lại văng ra.
Trên người Tuấn Hạc đã có sáu vết kiếm thương nhẹ và đối phương chỉ bị có hai.
Huệ Vân nhìn những giọt máu bị kiếm phong thổi thành làn sương, lo lắng cho Tuấn Hạc. Mắt nàng nhòa lệ và miệng lâm râm khấn vái, cầu khẩn Phật TỔ và chư vị BỒ Tát phù trì cho chàng.
Đến chiêu thứ ba trăm hai mươi sáu, Truy Mệnh Kiếm Sứ gầm vang, lao vào đối thủ, thanh trường kiếm rít lên ghê rợn, kiếm quang loang loáng dưới ánh tà dương, bao phủ cả đấu trường.
Tuấn Hạc bỗng mỉm cười, lảo đảo bước đến, thân hình nghiêng ngã như say rượn mũi kiếm vẽ nhanh lên màn kiếm quang rực rỡ của đối phương những nét nguệch ngoạc. Chàng đã dồn hết năm mươi năm công lực vào thân kiếm nên lực đạo mãnh liệt phi thường. Tiếng tính tang ngân lên không dứt và đường kiếm của họ Hoắc bị chân lại. Đồng thời, mũi kiếm của Tuấn Hạc tìm ra...