trưởng lão! Theo thiển ý của thuộc hạ thì bọn chúng không đi hẳn đâu.
Chắc chắc chúng sẽ cho người mai phục ở lối ra. Hai bên đều có loạn thạch, rất dễ ẩn thân.
Tuấn Hạc tán thành:
- Ta cũng nghĩ thế. Chỉ cần hai người để đưa Khuất Bạch Thành về Nam Dương chữa thương, số còn lại sẽ chân đường chúng ta. Nhưng không sao, các vị cứ nghĩ ngơi, sáng mai sẽ tính sau.
Phương Phương bỗng nói:
- Tướng công! Tiện thiếp nghĩ mãi không ra vì sao Khuất Bạch Thành lại biết rằng ôn đại thư nằm trong xe và chúng ta sẽ đi đường này?
Tuấn Hạc thở dài :
- Ta cũng thắc mắc nhưng không lý giải được.
HỒ Diện Cái nói ngay:
- Theo ý thuộc hạ thì có ba khả năng xảy ra. Một là ôn giáo chủ đã đào thoát đến Khuất gia trang ở Giang âm và báo cho Khuất Bạch Thành biết. Hai là trong Ma Cung có nội gián. Ba là chính Luân Hồi Đế Quân đã bán rẻ chúng ta.
Tuấn Hạc cân nhắc :
- Khả năng thứ nhất không đứng vững vì ôn lão không biết ta đã còn được Tiểu Băng. Còn việc bị Đế Quân bán đứng cũng không hợp lý. Lão còn cần đến ta để mượn Hàn Ngọc Thiền Trượng của Tây Phương Tự.
Phương Phương cướp lời chàng:
- Thiếp lại nghĩ khác chàng. CÓ thể VÔ Giới đại sư đã ngộ hại dọc đường và Ngọc Trượng đã rơi vào tay Đế Quân.
Khi tướng công nói với lão về việc Ngọc Trượng là chìa khóa, thiếp thấy ánh mắt lão rất kỳ lạ, có vẻ như đắc ý.
Tuấn Hạc gạt ngay:
- việc ấy tính sau, phải đến cho được Hằng Sơn cái đã.
* * *
Trời còn mờ mờ, Tuấn Hạc đã rời sơn cốc Chàng không đi dưới lòng đường mà luồn lách những bụi rậm hoặc loạn thạch ở trên. Chàng học hỏi của Thần Viên cách di chuyển êm thắm nên đến được đoạn mai phục mà không hề bị phát giác.
Ba mươi tên cung thủ đang dật dựa ngủ gật. Tuấn Hạc chăm chú quan sát, cố tìm ra hai lão già áo xanh. Chàng phải tiêu diệt họ trước vì Phương Phương và HỒ Diện Cái không thể ngăn được.
Tuấn Hạc mừng rỡ nhận ra chỉ có một lão đang ngồi nhập định sau một tảng đá.
Lão kia chắc đã đưa Khuất Bạch Thành đi khỏi Chàng nhảy lên tảng đá cao nhất rồi hắng giọng. Lão nhân và đám cung thủ giật bắn mình chồm dậy. Tuấn Hạc không để trễ một giây, tung mình chụp lưới kiếm xuống đầu thanh y lão nhân.
Chàng nóng ruột vì an nguy của Tiểu Băng nên sát khí ngập hồn, xuất thủ rất nặng tay. Chàng đã thức ngộ ra rằng trong chốn võ lâm tanh máu này, lòng nhân hậu không còn chỗ đứng nữa.
Tuấn Hạc xuất chiêu Hoàng Diệp Diêu Linh, vẽ lên hàng trăm kiếm ảnh mờ mờ, phất phới, lả lơi như lá vàng rụng bởi gió thu.
Thanh y lão nhân mất tiên cơ, lại kẹt tảng đá sau lưng lên không còn đường tiến thoái. Lão nghiến răng múa tít bảo kiếm chống đỡ.
Tiếng thép ngân dài hòa với tiếng rú ghê rợn của lão áo xanh. Ngực và bụng lão thủng lỗ chỗ, máu phun thành vòi.
Cái chết thảm thiết của đầu lãnh đã khiến đám cung thủ hồn phi phách tán, ném vũ khí đào tẩu không còn một mống.
Chúng sợ đến nỗi không dám nhảy lên lưng ngựa, chỉ mong sống sót nhờ đôi chân mà cha mẹ đã ban cho.
Tuấn Hạc hài lòng, chẳng truy sát làm gì Chàng ngửa cổ hú vang báo hiệu. Lát sau, xe song mã ra đến. Chàng nhẫy lên lưng tuấn mã của mình, đi trước mở đường Giữa tháng tư, bọn Tuấn Hạc đến được dãy Hằng Sơn mà không gặp thêm trở ngại nào. Bắc Nhạc Hằng Sơn là một dãy núi hùng vĩ ở phía Bắc tỉnh Sơn Tây, nằm cách huyện Đại Đồng chừng trăm rưỡi dặm.
Trên sườn núi có nhiều chùa chiền, nổi tiếng nhất là Hằng Sơn Ni Viện và Huyền Không Tự.
Tuấn Hạc để Phương Phương và Cù Y Thảo trong quán trọ dưới chân núi, rồi bồng Tiểu Băng thượng sơn. Huyền Không Tự là ngôi chùa lớn nhất Sơn Tây, tăng chúng có đến hơn trăm người.
Hôm nay đã là ngày mười tám tháng tư nên chùa đóng kín. Huyền Không Tự theo thiền tông, chỉ mở cửa vào các ngày rằm và mùng một.
Tuấn Hạc lên đến nơi thấy một lão ni đang quét lá dưới sân liền gọi:
- Vãn sinh có việc khẩn cấp. Muốn cầu kiến Thiền ông.
Lão ni buông chổi bước ra, mở cửa.
Thấy gương mặt nạm đen của Tiểu Băng, bà biến sắc hỏi:
- Băng nhi bị sao vậy?
Chàng buồn rầu đáp :
- Nàng bị Thiên Độc Giáo Chủ bắt từ Văn gia bảo về giam ở thạch lao. Không hiểu lão hạ độc thủ thế nào mà nàng hôn mê mãi không hồi tỉnh"
Lão ni nhìn chăm chú chàng rồi hỏi:
- Thí chủ đây là . . . ?
- Bẩm sư thái, vãn sinh là Văn Tuấn Hạc, trượng phu của Tiểu Băng.
Lão ni mỉm cười gật gù:
- Cốt cách của thí chủ khá lắm, hèn gì con nha đầu này không hết lòng yêu mến.
Tuấn Hạc kinh hãi, hiểu ngay bà là ai.
Chàng quỳ xuống ra mắt :
- Tiểu tế bái kiến nhạc mẫu"
Lão ni đỡ chàng lên, an ủi:
- Hiền tế yên tâm, đã đến được đây thì Băng nhi không có gì phải lo cả. Hãy theo ta vào hậu tự gặp Thiền ông.
Bà dẫn chàng đi xuyên qua khu rừng bên hông đại điện, đến một tăng xá rất là mộc mạc, phòng ngoài có một chiếc bàn bát tiên và có hai người đang ngồi uống trà Tuấn Hạc nhận ra ngay lão nhân râu dài là Thanh Ngưu Cuồng Tử ôn Thần Phong. Người thứ hai là một lão tăng râu dài bạc phếch, dung mạo hiền từ, có lẽ là Hằng Sơn Thiền ông ôn Thanh Liêm.
Chàng vẫn bồng Tiểu Băng trên tay, quỳ xuống thi lễ :
- Tiểu tế bái kiến nhị vị bá phụ.
Cuồng Tử mừng rỡ cười ha hả :
- Lão phu cho rằng diệt tế chẳng phải chết được ! Mau đứng lên "
Lão bỗng nín bặt vì nhận ra Tiểu Băng:
- Tiểu liễu đầu làm sao vậy?
ôn phu nhân đỡ lời chàng :
- Băng nhi lại bị ôn Thiếu Bảo hạ độc thủ.
Thiền ông vội nói:
- Hãy đặt nó lên chõng tre kia ta xem thử.
Tuấn Hạc làm theo lời lão. Thiền ông đứng bên bắt mạch và trầm ngâm rất lâu.
Cuối cùng, lão thở dài bảo:
- Nguy rồi! Nhị đệ đã dùng đến Thiên Độc Bế Tâm Tán, bần tăng đành phải bó tay"
Lão ni - tức ôn phu nhân sa lệ nói:
- Không ngờ lão ta lại nhẫn tâm đến thế Tuấn Hạc chết đi ếng người :
- Bẩm đại bá phụ, chẳng lẽ trong thiên hạ không còn kỳ trân dị dược gì cứu được Băng muội hay sao?
Thiền ông suy nghĩ một lúc lâu mới đáp:
- Nếu mượn được bảo vật trấn sơn của Tây Phương Tự trên núi Lục Bàn thì Băng nhi mới thoát chết"
Tuấn Hạc mừng rỡ nói :
- việc ấy không khó, chính tiểu tể đã đoạt lại vật ấy trong tay Thiên Ma Song Lão, hoàn lại cho đệ tử Tây Phật. Tiểu tế sẽ đi ngay Cam Túc để mượn lại.
Thiền ông vẫn chưa hết ưu tư:
- Nhưng thí chủ phải đi cho thật nhanh.
Băng nhi không sống nổi quá bốn mươi ngày nữa đâu.
Tuấn Hạc nghẹn ngào hứa:
- Tiểu tế sẽ kiêm trình ngày đêm, chắc chắn sẽ về kịp thời hạn.
Chàng sụp xuống thi đại lễ rồi hạ sơn ngay. Xuống đến khách điếm nơi chân núi, chàng bèn kể lại cho Phương Phương và HỒ Diện Cái nghe mọi sự.
Tuấn Hạc nghiêm giọng:
- Cuộc hành trình cấp bách này rất gian khổ hai người không thể kham nổi đâu.
Hãy trở lại Hoàng Sơn trước đi. Cứu được Tiểu Băng rồi ta sẽ cùng nàng đến Thiên Ma Cốc.
Phương Phương phụng phịu nói:
- Thiếp sẽ ở lại đây và lên Huyền Không Tự chăm sóc ôn đại thư chờ tướng công cùng về. Cứ để Cù huynh đi Thiên Ma Cốc trước.
Tuấn Hạc gượng ngừng nói :
- Ta biếtgiới thiệu nàng với các trưởng bối của Băng nhi thế nào đây?
Phương Phương mỉm cười:
- Tướng công chẳng phải lâm vào tình trạng khó xử. Thiếp sẽ có cách kề cận đại thư, tướng công cứ lên đường ngay đi.
Nàng bèn soạn hành lý cho Tuấn Hạc.
Nhân lúc HỒ Diện Cái bước về phòng, chàng kéo Phương Phương vào lòng hôn lên má nàng rồi âu yếm nói:
- Phương muội quả là tuyệt diệu, ta rất cảm kích.
Phương Phương hôn trả lại rồi nũng nịu:
- Chỉ mong sau này tướng công và ôn đại thư không hất hủi tiểu muội và Mạn Ngọc là đủ rồi.
Tuấn Hạc nghiêm giọng:
- sao nàng lại nghĩ quẩn như vậy? Ta đâu phải kẻ bạc hạnh vô tình.
Phương Phương thấy chàng có ý giận, vội bịt miệng chàng lại, cười khúc khích:
- Thiếp chỉ đùa chút thôi, ai mà không biết tướng công là đệ nhất chung tình?
Tuấn Hạc đeo tay nải vào vai rồi lên ngựa đi ngay. Dù không thuộc đường nhưng Lục Bàn Sơn ở hướng mặt trời lặn nên không sợ lạc.
Trưa hôm sau chàng đã vượt nhánh phải Hoàng Hà, đi vào vùng cao nguyên Hoàng Thổ của Thiểm Tây. Cao nguyên đất vùng này rộng đến gần tám mươi vạn dặm vuông, nằm ở phía Tây Bắc lãnh thổ Trung Hoa, trong địa phận các tỉnh: Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Thanh Hải và Nội Mông.
Dưới chân Tuấn Hạc là một loại đất nâu vàng, gồm các hạt bụi mịn: khi mưa xuống thì bở, xốp, khi nắng ráo thì rắn lại và trên mặt là lớp bụi dày.
Ngay chiều hôm ấy, chàng đã phải đối phó với một cơn giông cát bụi mịt mù.
Dù đã lấy áo quấn chặt mũi miệng, lớp bụi vàng kia cũng khiến chàng muốn ngợp thở. Mà ở Thiểm Tây, năm nào cũng có vài cơn giông như vậy.
Tuấn Hạc vẫn cắc răng thúc ngựa đi không nghĩ. Tuy nhiên, cước trình cực kỳ chậm chạp vì địa hình bị chia cắt dữ dội, cả về chiều ngang lẫn chiều dọc, tạo nhành những gò đồi hình tròn hoặc bầu dục. Hoàng thổ rất dễ bị nước mưa xói mòn nên mới gây ra hiện tượng này.
Vần thái dương mùa hạ chói chang, đổ lửa xuống đầu, vắt kiệt những giọt nước trong cơ thể lữ khách.
Cuộc hành trình gian khổ kéo dài suốt mười lăm ngày, thay bốn lần ngựa mới đến được nhánh tả của Hoàng Hà. Bên kia sông, chính là thành Ngân Xuyên, thủ phủ của đất Tây Hạ.
Giờ đây, Tuấn Hạc đã nhẹ đi mười cân, râu ria rậm rì trên gương mặt sạm nắng.
Chàng khoan khoái đứng cạnh bến đò ngang, hít thở luồng gió mát của sông Hoàng. Thấy một gã ăn mày bước đến xin tiền. Chàng cho hắn một nắm tiền đồng rồi hỏi:
- Các hạ có biết chừng nào thì đò ngang sang đến hay không?
Gã cười đáp :
- Giờ mới là cuối giờ Ngọ, công tử phải chờ đúng một canh giờ nữa.
Tuấn Hạc thất vọng bảo :
- Mong các hạ chỉ cho ta một chỗ để tắm rửa và ăn uống.
Gã hò a tử vui vẻ chỉ về hướng Nam :
- Công tử cứ đi dọc theo bờ sông, độ bốn chục trượng sẽ có một tửu quán, tên gọi Tẩy Trần quán. Nơi ấy có cả những phòng tắm dành cho khách lữ hành.
Gã bỗng bụm miệng cười rúc rích:
- Chắc đã lâu công tử chưa hề tắm?
Trông người còn dơ bẩn hôi hám hơn cả tiểu nhân.
Tuấn Hạc gượng cười :
- Đã nửa tháng nay ta chỉ rửa ráy qua loa.
Chàng quay đầu ngựa đi về phía Tẩy Trần quán. Giao ngựa cho tiểu nhị xong, chàng bước vào gọi một mâm cơm rượn rồi đi thẳng đến nhà tắm.
Tuấn Hạc dùng hết ba mươi viên tạo giáp mới gột hết bụi đất trên cơ thể và mái tóc.
Tạo giáp chính là viên bồ bết, loại cây này mọc khắp lãnh thổ Trung Quốc và trái của nó đã trở thành chất tẩy rửa đầu tiên, từ thời nhà Tấn. Người ta giã nát bồ kết ra rồi viên thành hạt nhỏ như hạt quệt để tắm gội.
Tắm xong, Tuấn Hạc rút thanh bảo kiếm ra cạo râu. Chàng rất hài lòng với thanh kiếm bề ngoài xấu xí nhưng rất sắc bén này.
Lúc ra ngoài, chàng trở lại là một vị công tử anh tuấn phi phàm, làn da rám nắng càng tăng phần lịch lãm.
Đã mười mấy ngày nay chàng chỉ ăn toàn bánh hấp, bánh bao, lương khô và không uống một giọt rượn. Vì vậy, dù cơm rượn ở quán Tẩy Trần chẳng ra gì, chàng cũng cảm thấy rất ngon.
Tuấn Hạc đã ăn xong bốn chén cơm mà cây khắc hương trên quầy của chủ quán mới cháy được một nửa. Như vậy, còn đến bốn khắc hay nửa canh giờ nữa đò mới sang. Chàng bèn gọi thêm bình rượn nhỏ ngồi nhâm nhi.
Bông một cỗ xe độc mã dừng lại trước cửa quán. Người đánh xe là một lão nhân mặc áo lụa xám, râu tóc hoa râm, dung mạo phương phi phúc hậu.
Lão bước xuống, vén rèm xe phía sau, bồng ra một vị cô nương, đem vào đặt ngồi trên ghế. Lão tươi cười phân bua:
- Khuyển nữ chẳng may mắc chứng quái tật Không cử động và cũng không nói được. Cũng may nó còn ăn uống được nếu không lão phu sẽ chẳng biết làm sao.
Mụ chủ quán suýt soa:
- Thật tội nghiệp! Một nữ nhân xinh đẹp thế này mà lại mắc chứng nan y.
Chẳng hay lão gia định đưa tiểu thư đi đâu vậy?
Lão nhân ngồi xuống ghế, rầu rĩ đáp:
- Lão phu nghe nói ở Thạch Chuỳ Sơn có bậc thần tiên giáng hạ nên đem khuyển nữ đến đấy xem sao.
Tuấn Hạc bỗng nhận ra gương mặt thiếu nữ kia rất quen thuộc. Nàng giống hệt ni cô Huệ Vân, người đã bị chàng đả bại và cứu mạng ở đại hội Hoa Sơn.
Nàng ta ngồi đối diện với chàng và ánh mắt to đen kia ánh lên vẻ bi thương, đau đớn Tuấn Hạc nhìn thật kỹ rồi vận công truyền âm:
- Tại hạ là Đơn Thu Cốt đây. Nếu cô nương chính là Huệ Vân thì hãy chớp mắt ba cái.
Mắt nữ lang sáng lên và chớp đúng ba cái Tuấn Hạc hỏi tiếp:
- Vậy cô nương bị lão già kia khống chế?
Huệ Vân lại chớp mắt xác nhận.
- cô nương yên tâm! Tại hạ sẽ giết lão ta ngay bây giờ.
Chàng sợ đò sắp đến nên quyết định xuất thủ liền lập tức. Mụ chủ quán tính tiền xong, chàng khoác bọc hành lý vào vai, cầm kiếm đi ra.
Lúc ngang qua bàn Huệ Vân, chàng thò tay giật mái tóc óng ả trên đầu nàng. Quả nhiên lộ ra lớp da đầu không có tóc. Tuấn Hạc tức tốc nắm thành ghế của nàng, kéo lùi về phía sau, rồi chỉ mặt lão nhân áo xám quát lớn:
- Lão là yêu nhân nhượng nào, sao lại dám bắt cóc đệ tử phái Hằng Sơn?
Lão ta giảo hoạt kêu lên:
- Ngươi đừng vu khống, khuyển nữ lâm trọng bệnh nên phải cạo đầu để đỡ mất công gội.
Tuấn Hạc cười nhạt :
- Để xem lão có chịu lộ nguyên hình hay không?
Chàng vung hữn thủ giáng một chưởng sấm sét vào ngực đối phương. Lão ta không còn cách nào khác, đành tung mình né tránh. Thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng giống một viên ngoại chút nào. Tuấn Hạc rất quý thời gian nên rút phăng trường kiếm, xuất chiêu Tịch Dương VÔ Ngũ.
Lúc này, trên tay lão nhân đã xuất hiện hai thanh đoản kiếm tẩm độc xanh lè. Lão nghiến răng xông vào lưới kiếm vì thấy chẳng có gì đáng sợ.
Nhưng lão đã lầm giống như những người đã từng so kiếm với Tuấn Hạc.
Chiêu kiếm này không xuất ra âm thanh hay ánh sáng lóe mắt nhưng lại vô cùng nguy hiểm. Mũi kiếm cứ âm thầm lướt đến, xuyên qua màn kiếm quang của đối phương và cắm thẳng vào ngực.
Lão ác ma đau đớn ôm ngực trái, dương cặp mắt oán độc, nói thều thào:
- Ngươi . . . đừng hòng . . . tho át chết dưới . . . tay Hoàng Thổ Chi Vương.
Dứt lời, lão gục xuống chết tốt.
Tuấn Hạc xách lão ra phía sau ném xuống dòng nước vàng đục của Hoàng Hà. Chàng trở ra nghiêm nghị bảo mụ chủ quán và các thực khách:
- Đối với ân oán giang hồ, chư vị chớ nên dính vào uổng mạng. Cứ coi như lão ta không hề xuất hiện ở nơi này. Nhâm thần lạnh lẽo uy nghiêm của chàng đã khiến họ run bắn lên, đồng thanh gật đầu:
- Bọn tiểu nhân đã hiểu.
Tuấn Hạc nhặt mái tóc giả, bồng Huệ Vân đặt lên thùng xe, cột ngựa của mình vào phía sau rồi đánh xe đi.
Đến bến đò, thấy gã hóa tử lúc nãy còn ngồi đấy, chàng vẫy gã lại gần rồi xòe cụp ngón tay đủ ba lần. Gã sợ hãi hỏi lại:
- Công tử bao nhiêu tuổi?
- Ta tròn bổn mươi .
Gã ta run rẩy vòng tay vái :
- Đệ tử là Lật Tử Cái Đổng Trung, xin bái kiến tứ trưởng lão.
- Các hạ thuộc phân đà nào?
- Bẩm trưởng lão! Cam Túc, Tây Hạ cùng chung một phân đà, trụ sở trong thành Ngân Xuyên.
- Tốt lắm! Các hạ cùng ta qua sông rồi tìm phân đà chủ, bảo gã đến Tây Phương Tự trên Lục Bàn Sơn gặp ta. Còn các hạ dẫn con ngựa sau xe kia theo ta.
chàng lại đưa thêm một tờ tiền giấy trị giá năm mươi lượng:
- Đây là lệ phí.
Đổng Trung mừng rỡ vái tạ, tháo dây cột ngựa, dẫn lên đò.
Sang đến bờ bên kia, Tuấn Hạc hỏi Lật Tử Cái:
- Gần đây có nơi nào vắng vẻ, kín đáo để ta xem xét bệnh trạng cho vị cô nương này không?
Đổng Trung gật đầu, lên ngựa dẫn đường đi về hướng Nam. Được hơn dặm là đến một khoảnh rừng liễu nằm dựa bờ sông. Trong rừng có một tòa phế miếu điêu tàn. HỌ Đổng cười bảo:
- Bẩm trưởng lão! Đây là nơi cư ngu của tiểu nhân. Bề ngoài hoang phế nhưng bên trong rất sạch sẽ.
Tuấn Hạc nghiệm giọng:
- Nhờ các hạ cảnh giới dúm cho.
Chàng mở rèm xe, bồng Huệ Vân vào miếu. Quả thực nền miếu được quét dọn tươm tất, và có cả một Oå rơm dày.
Tuấn Hạc đặt Huệ Vân xuống Oå rơm rồi bảo:
- Tại hạ sẽ hỏi, nếu đúng thì ni cô chớp mắt. Sai thì thôi.
Huệ Vân chớp mắt trả lời. Tuấn Hạc hỏi liền:
- Ni cô bị lão điểm huyệt?
Huệ Vân xác nhận đúng.
- Những huyệt đạo ấy nằm ở đâu?
Nói xong chàng mới nhớ câu này không có cách trả lời. Chàng bèn hỏi lại:
- Phía trước?
Huệ Vân chớp mắt. Tuấn Hạc thở dài, ngượng ngừng nói:
- Tại hạ sẽ đọc tên từng huyệt đạo, ni cô sẽ xác nhận những huyệt mà lão kia đã điểm.
Cuối cùng thì Huệ Vân đã xác định được bảy huyệt mà lão ác nhân đã phong tỏa: Giáp Xa, Nhu Thượng, Thiên Tuyền, Thực Đầu, Thông Lốc, Bế Quan, Thạch Môn.
Tuấn Hạc trầm ngâm suy nghĩ rất lâu, chính sắc nói :
- Thủ pháp điểm huyệt này rất quái dị nhưng không làm khó được tại hạ. Tuy nhiên khi chữa trị tất phải mạo phạm đến những chỗ cấm ky của ngọc thể. Chẳng hay ni cô có thể tất cho không?
Da mặt của Huệ Vân đỏ bừng lên và nàng chớp mắt tỏ ý ưng thuận.
Do người bị phong tỏa kinh mạch quá lâu nên không thể dùng thủ pháp cách không chỉ lực mà giải được. Tuấn Hạc bắt buộc phải đặt ngón tay vào da thịt Huệ Vân, chân khí mới vào sâu đáy huyệt.
Tuy không cần cởi y phục nhưng thời gian chàng đả thông hai huyệt Nhũ Trung và Khí Xung lại khá lâu nên Huệ Vân xấu hổ đến sa lệ. Đấy là hai vùng cấm của nữ nhân.
Gần hai khắc trôi qua, Tuấn Hạc mới cứu được Huệ Vân. Sự ngượng ngừng khẩn trương đã khiến mồ hôi chàng toát ra như tắm. Huệ Vân lại tưởng chàng quá mệt nhọc nên càng cảm kích. Nàng ngồi lên, đổi thành thế quỳ, chắp tay vái Tuấn Hạc:
- Đại ân hai lần cứu mạng của thí chủ, bần ni xin tạc dạ. Kiếp này bần ni sẽ luôn cầu nguyện Phật TỔ độ trì cho thí chủ.
Tuấn Hạc vội đỡ nàng lên:
- Ni cô đừng bận tâm.
Huệ Vân thỏ thẻ :
- Theo bần ni được biết thì công tử chẳng phải là Đơn Thu Cốt hay Doãn Tự Vân gì cả? Xin cho biết đại danh.
Chàng cười đáp :
- Tại hạ là Văn Tuấn Hạc, quên ở đất Lư Lăng, Giang Tây. à, ni cô đi đâu mà bị lão yêu quái kia bắt đem về tận chốn này?
Huệ Vân ngượng ngừng đáp :
- Bần ni rời Hằng Sơn về Hán Trung thăm gia quyến. Không ngờ khi đến Trường An thì lại bị lão nhân kia dùng mê hương ám hại. Lão nói rằng mình là Tầm Hoasứ giả của Hoàng Thổ Vương Gia, có nhiệm vụ đi tìm nữ nhân về dâng cho Vương Gia.
Tuấn Hạc thầm nghĩ: ~VỊ cô nương này có dung mạo kiều diễm phi phàm, sao lại nương thân cửa phật?" Chàng hỏi tiếp:
- Lão Tầm Hoa sứ giả có nói ra tọa lạc căn cứ của Hoàng Thổ Vương Gia hay không?
- Bần ni có nghe lão nhắc đến Hoàng Thổ Thành, nhưng không nói rõ ở đâu.
Nàng hỏi lại:
- Dám hỏi Văn thí chủ đến vùng biên tái này có việc gì?
Tuấn Hạc thở dài đáp :
-...