Con quái vật kia, nghe tiếng động, vùng cẳng chạy mất. Thì ra một con hổ vẫn lợn qua nhà nàng, đêm nào cũng vậỵ Hai cô cháu nàng rình bốn năm đêm, đều thấy bóng hổ đi lại tuần tiễu quanh nhà, tìm kế leo lên sàn. Cả hai cùng lo ngại cực điểm. Rạng ngày thứ năm. Tiêu chạy ra chợ, tìm một thầy số dắt về. Oanh đặt tiền quẻ, kể đầu đuôi câu chuyện cho thầy số nghe, rồi khóc mà hỏi rằng:
- Nhờ thầy coi giúp cho cháu một quẻ, và xem có cách gì cứu cháu thoát nạn được chăng?
Ông thầy bấm quẻ hồi lâu, nghiêm nghị phán rằng:
- Cô không lọ Thọ mệnh cô vững lắm, chưa có thể chết ngay được. Ít ra, cô cũng còn sống được lâu nữa, bây giờ chưa đáng ngại đâu! Nó không làm gì được cô cả! Cô chỉ nên bỏ tạm chốn này lánh mình xuống thuyền ở vài tháng là tự nhiên nó chán, không theo cô nữa!
Ông thầy số đó chính là cậu ruột tôị Trong khi ông đoán quẻ cho Oanh Cơ, nàng có thuật rõ cho ông nghe trường hợp gặp gỡ tráng sĩ Lê Trọng Việt ra làm sao, tình hình anh chị nàng bị thác ra làm sao, nàng được thoát nạn thế nào, câu chuyện tráng sĩ kể cho nàng nghe thế nào, và sự tráng sĩ giúp đỡ nàng những thế nào v.v… Sau này kể lại chuyện ấy tôi nghe cậu tôi nói:
- Lúc đó cậu thấy nàng bồn chồn kinh sợ quá, cậu cũng động tâm thương nàng, không muốn nói sự thực cho nàng phải lo nghĩ khủng khiếp. Theo quẻ, nàng có số cọp vồ chết chỉ còn sống được dăm bảy năm nữa là cùng!
Không biết về sau nàng bị tuẫn nạn ở đâu, chỉ biết sau khi nghe thầy số bảo thì nàng bỏ tiền dành dụm ra mua một cái thuyền con, thu xếp đồ đạc, rồi khóa chặt cửa nhà lại, mang cháu xuống thuyền, bập bềnh trôi nổi trên mặt một con sông con không xa hạt Đồng Giao mấỵ Nàng yên trí lánh nạn như thế độ một hai tháng thì yên. Lúc bấy giờ sẽ trở về nhà cư tang anh chị như cũ, cho hết hạn hai mươi bảy tháng thì thôi, nhiên hậu đi đâu sẽ định liệu cũng không muộn.
Ngờ đâu đến ở trên sông, mà nàng cũng bị hổ theo rình để bắt. ngày ngày nàng ra đầu thuyền vo gạo rửa cá, nhìn lên bờ thấy ông tướng kia ngồi chồm chỗm chõ mắt nhìn nàng. Giá lần đầu, có lẽ nàng thất đảm ngã lăn xuống nước, nhưng lâu nàng cũng quen đi chỉ tất tởi bỏ gạo cá chạy thụt vào khoang thuyền mà thôị Hổ rình chán, chả làm gì nổi gầm lên cút thẳng.
Oanh Cơ và cháu sợ hãi, nhổ sào đi về khoảng sông rộng hơn, cắm thuyền tận giữa sông, không dám lại gần bờ. Như thế hổ không làm gì ra tận giữa dòng được, hai cô cháu sẽ khỏi bị nạn. Khốn nỗi tránh khỏi cái nạn hổ, lại khó qua nạn phong ba; đã không dám đậu thuyền sát kề bờ, mỗi lần có sóng gió thì còn gì là tính mạng. Nhất là hai cô cháu không phải nòi chài lới, nhỡ bị lật thuyền hẳn là chết ngạt chết trôi thôi! Hai cô cháu đều không biết bơi, thế mới lại càng nguy hiểm! Nghĩ cho kỹ, ở trên đất cũng chết, xuống dưới sông cũng chết, chả thà lên mặt đất còn hơn. Tử sinh hữu mệnh, thầy số đã cho biết mình còn sống được lâu nữa, sợ gì mà chả dám về sàn ở như thường? Ta chỉ việc đóng cửa ngõ cho sớm, chặn cho chắc, lên tận từng cao mà nằm,
rút thang đi, nó giỏi mấy cũng không lên được. Ta cứ đừng đi đâu, ở tịt trong buồng kín, dễ thường đã bắt được tả
Nghĩ như vậy, chọn lúc mặt trời đúng ngọ, nàng cắm thuyền vào một chỗ đông đúc, thu xếp đồ đạc, thuê một toán phu khuân vác và hộ nàng đi ngựa trở về Đồng Giaọ Tính đốt tay, hôm nàng lại nhà sàn chính là hôm cách sáu tháng về trước anh chị nàng bị chết nạn trong rừng.
THẦN TRÙNG HỔ
Ông Cai Móm lại ngừng một lượt nữa để uống rượu và hút
thuốc làọ Biết tính ông hay hãm câu chuyện bằng những món sở trường ấy, Lệ Thi và tôi đành đăm đăm ngồi chờ nghe nốt, không dám giục ông nữa sợ nếu làm cuống quít lên, ông sẽ bị tinh thần rối loạn quên đoạn mạch rồi làm cho sự tích kém hay đị May sao, ông không để hai vợ chồng tôi đợi quá. Ông hút thuốc lào xong, vội vã kể tiệp: Bấy giờ Oanh Cơ trở lại ở đất Đồng Giao làm lụng khâu vá như thường. Bỗng một đêm, tự nhiên nàng thấy trong lòng bồn chồn khắc khoải, tuy nằm tận sàn trên, cửa ngõ đóng chặt và chặn kỹ lưỡng cả, thang cũng rút lên rồi, cửa gác đóng sập xuống rồi, thế mà nàng vẫn thấy lo ngại quá. Nàng cố ngủ đi cho đỡ mệt, thế mà không sao ngủ được, từ mấy tháng nay, có đêm nào nàng nhắm mắt được đâụ Nàng cùng cháu mỗi người một góc phòng, thám thính. Lúc bấy giờ vừa hết canh haị Bỗng nghe có tiếng đập cửa thình lình, cấp bách lắm:
- Mở cửa cho tôi vớị Mau lên, cô Oanh ơi! Mở maụ.
Đầu tiên, nàng nghe rõ cả, nhưng bấm cháu, cố làm thinh không trả lờị Tiếng đập cửa lại gấp nữạ
- Tôi đây mà, tôi là Lê Trọng Việt đây mà! Mở cửa mau cho tôi, tôi bảo cái này cần kíp lắm, không thì chết cả bây giờ nào! Mau lên!
Nghe đến tên Lê Trọng Việt, nàng mới sai cháu thắp đèn lên, xuống từng sàn dưới dựng liếp, mở rèm, giơ đèn ra ngoài rọi xem. Quả nhiên là Lê Trọng Việt thực. Người cháu nhanh trí khôn, gọi Việt lại mé cửa song, vứt xuống cho Việt một cái chạc lớn, bảo tráng sĩ nắm vào chạc mà đu lên, còn một đầu thì người cháu cố sức kéọ Hì hục một lúc, tráng sĩ lẫn mò lên được, vội vàng cùng người cháu đóng liếp thả rèm cẩn thận, lấy gỗ chắn ngang cả cửa song, rồi cùng lên cả từng trên, rút thanh lên, đóng sập cửa gác lại, bắc ghế để lên trên cho chắc.
Tráng sĩ vừa lên đến nơi, bỗng thấy Oanh Cơ rên một tiếng, rồi ôm bụng la ó vang lừng, lăn tử trên giường xuống mặt sàn, giẫy giụa khóc lóc. Hỏi nàng, nàng kêu đau bụng lắm lắm, vừa nói vừa quằn quại dưới chân tráng sĩ, ôm lấy bụng mà kêu van.
Người cháu lại nâng đỡ cô, đấm lưng cho cô và lần trong bao, có một miếng mộc hương, bắt Oanh phải bỏ mồm nhai nuốt đi, mặc dầu nó đắng hơn mật gấụ Nuốt mộc hương rồi nàng vẫn còn kêu đau; được một lúc, đòi xuống nhà, ra vườn đi đại tiện. Tráng sĩ vội ngăn nàng lại nói rằng:
- Cô điên đấy hay saỏ Bây giờ mà đòi xuống nhà, cô không sợ chết ư? Cô cứ phải ngồi đâỵ Cô cứ phải ở ngay bên cạnh tôi, chả được đi đâu cả. Tôi không cho cô xuống!
Oanh Cơ hết sức kêu khóc, một mực đòi ra vườn, nếu không thì chết mất. Tráng sĩ nhất quyết giữ chặt lấy nàng, mặc nàng kêu la khan cổ thì thôị Mãi sau cùng, nàng đau dữ dội kịch liệt quá, cuống cuồng cả lên, xé cả áo yếm, toan đập đầu vào vách tự tử nếu ngăn cấm không cho nàng toại ý xuống gác. Tráng sĩ bất đắc dĩ, phải tìm một kế hoạch mới, bảo nàng rằng:
- Cô cần kíp đi sông quá, mà không thể nào xuống được, thì âu là tôi mở liếp ra, cô ngồi vào bực cửa này, thế cũng được chớ gì! Tôi chỉ có thể cho phép cô làm thế mà thôi, nếu cô không thuận nữa thì mặc cô, tôi cứ bắt cô ở đây!
Lần này, Oanh Cơ bằng lòng, nhưng nàng không chịu cho ai sờ đến nàng cả, muốn cho hai người đàn ông, cháu nàng và tráng sĩ, để mặc nàng một mình ra cửa sổ, không ai được đến gần. Nàng chỉ rình cho tráng sĩ vô ý là lao mình xuống đất. Tráng sĩ hình như hiểu biết tất cả, chàng ghé sát mồm vào tai người cháu nói vài câu nhỏ, rồi giả vờ cho phép Oanh Cơ muốn làm gì thì làm. Người cháu lại gần Oanh bảo nàng:
- Nào! Cháu đỡ cô lại cửa sổ nào! Khi nào cô an vị rồi, cháu sẽ buông cô ra!
Kỳ thực, cậu ta giả vờ nói thế, nhưng lại gần đến liếp thì cứ nắm chặt lấy dây lưng và dải yếm của cô không buông. Oanh giằng co, mắng cháu tàn tệ, bắt cháu phải thả mình rạ Giữa lúc hai cô cháu đưng xung đột ấy, nhanh như chớp, tráng sĩ đã nhận được ngay dưới cửa sổ một cái bóng đưng thu hình ngồi đợi, rình hễ Oanh có văng mình xuống là đỡ lấy đem đị Chàng giả vờ lại mé cửa song, can ngăn hai cô cháu:
- Thôi! Cậu bỏ cô ấy ra, mặc cô ấy ngồi một mình!
Mồm tuy nói thế, nhưng chàng đã dang cổ tay sắt chặn ngang tấm cửa, bấm vào vai Tiêụ Người cháu biết ý, chạy đem cái đèn dầu lạị Oanh giãy nãy:
- Ô hay! Đem đèn lại làm gì thế này! Tôi thẹn đến chết mất thôi! Ô kìa! Sao lại thế?
Rồi nàng mắng Tiêu, chửi Tiêu thậm tệ. Tráng sĩ chả nói gì cả, mặc nàng la ó; chàng sẽ hơi né đầu qua cửa sổ, xem xét tình hình một chút, nhận rõ đích xác tọa vị của bên địch, rồi rút trong lưng ra cái pháo địa lôi cùng hai chiếc dùi đồng. Nhanh như cắt, chàng dí ngòi pháo vào đèn, luồn tay qua vai Oanh ném mạnh cả pháo xuống thềm, ngay dưới cửa sổ.
Tiếng pháo nổ kinh thiên động địa xen với tiếng hổ gầm rung chuyển vùng lặng lẽ giữa đêm khuyạ Tiếp những tiếng huỳnh huỵch nặng nề tỏ rằng một vật bị thương đương chạy bán sống bán chết. Oanh Cơ nghe tiếng nổ ngã gục về đằng trước, cháu nàng vội giơ tay nâng đỡ và vực nàng lại nằm nghỉ trên giường. Hồi lâu nàng tỉnh dậy, hỏi nàng vừa làm trò gì khi nãy, nàng chối rằng mê đi, chả biết đã xử sự ra làm saọ Thì ra nàng bị hồn ma ám ảnh ốp vào nàng để chực đưa nàng vào tử lộ. Bấy giờ tráng sĩ mới ngỏ cho nàng rõ chàng đã tình cờ cứu mạng nàng một lượt thứ haị Chàng ngồi kể:
- Tôi vào đây chiều hôm nay, định vào thăm cô trước khi vào thung lũng mọi ngày để săn bắn. Song không hiểu vì đâu tôi lại nghĩ rằng: “Mình ở Nam vào, chả có quà bánh gì, lại chơi thì khó coi quá, âu là ta hãy vào rừng kiếm con cầy con cáo, may ra nếu vớ được con hoẵng, con nai, mai đem về làm quà, nấu nướng đánh chén với nhau thì vừa lịch sự vừa thú vị!” Tôi nghĩ thế nên đi thẳng vào rừng lại chỗ nhà sàn của tôị Tôi thắp hương đốt vàng khấn thần Linh thổ địa và các vong, rồi theo lệ thường, nằm chèo khoeo ngủ một giấc dưỡng thần, đợi đến đầu canh hai thì dậỵ Không hiểu thế nào tôi chỉ chợp đi có một chốc, khi tỉnh dậy, thấy một sự rất dị kỳ.
Trước lúc tôi còn ở đây săn bắn, cây cổ thụ chỗ tôi đóng đô tuy có nhiều rễ từ trên cành mọc xuống, song chưa có rễ nào mọc từ cành này liền qua cành kiạ Đến nay, nó có nhiều rễ như thế lắm trĩu xuống là là mặt đất, trông như một cái võng. Mới có sáu tháng mà rễ ấy đã chóng tốt thế! Tôi mở mắt dậy, lúc ấy vừa cuối canh một mà thôi, chưa qua canh haị Tôi nhìn xuống gốc cây, thấy một con hổ đương phủ phục nằm đó, hình như ngủ. Song không phải nó ngủ, bởi chỉ một chốc, thấy nó vẫy đuôi, rồi chồm đứng dậy hai chân trước víu vào thân cây, tựa hồ muốn đứng thẳng hai chân như ngườị Quả nhiên nó muốn thế thật. Mới đầu tiên nó phải dùng thân cây làm chỗ dựa để đứng lên, sau nó tập quen thì đứng vững được. Nó cố lê đi một bước, đặt đít ngồi lên những rễ cây uốn cong như võng, còn hai chân thì víu vào những rễ ở là là ngang mặt nó. Tôi ngồi trên cây, lấy làm kinh dị lắm, cố ngồi yên không cựa quậy, thử xem con quái vật kia giở trò gì mà càng ngày càng bí hiểm lạ lùng như vậỵ
Con hổ an vị rồi thì lấy đuôi đập mạnh xuống đất, co chân sau lên khỏi mặt cỏ, làm cho mấy cái rễ cây lung lay, đưa đi đưa lại như võng. Hình như nó cho sự bắt chước loài người như thế là thú lắm, nó ngồi chễm chệ, vênh váo, có vẻ tự tôn tự tại và đắc ý vô cùng. Nó ngồi như vậy trong giờ lâu, gầm gầm gừ gừ tỏ vẻ khoái lạc sung sướng tuyệt điểm. Bỗng thấy nó gầm lên một tiếng, nhưng gầm be bé thôi, không há hốc miệng ra “à uôm” như mọi ngày đâụ Có lẽ nó ra một mệnh lệnh nên khi vừa hét xong, có hai cái bóng hiện ra ngồi dưới đất, trước mặt nó: một người đàn ông, áo thâm, quần trắng, tay ôm một cây đàn dài, một người đàn bà áo thâm, váy thâm, khăn mỏ quạ, cầm một đôi gỗ phách. Một kép một đàọ Tôi mới thấy, cũng đoán đó là ông cả và cô hai nhà ta vậỵ Gia dĩ mặt trăng lưỡi liềm lúc đó lại không bị mây che khuất; dưới ánh trăng mờ, tôi trông thấy ông cả và cô hai ngồi ngay ở chỗ cả đôi tuẫn nạn ngày hôm trước. Ông cả lên dây đàn rồi gảy, cô em theo nhịp gõ phách hát. Tiếng đàn ca nghe rõ mồn một, vang cả một vùng thung lũng. Lần này, thứ tiếng tôi nghe, nó y như tiếng đàn hát của loài người, không có cái vẻ âm thầm xa lắc xa lơ như tiếng ma ngày nọ, cái thứ tiếng mà tôi gọi là “bóng lời nói” ấy mà.
Ca hát lâm ly não nuột, tôi nghe cũng còn nhẹ nhàng khoan khoái cả tâm trí, nữa là hổ. Nó nghe tiếng du dương hình như ngồi ngủ gật gà gật gưỡng, vừa mơ màng vừa rung rinh đưa võng theo nhịp đàn phách. Nghe như thế đến gần giữa canh haị Bỗng thấy con hổ bỏ võng, nhảy chồm lại cào cấu ông cả, rồi cô haị Vẳng nghe có tiếng than khóc và kêu van:
- Lạy ông vạn lạy! ông sinh phúc tha cho chúng tôi! Ông đã biết nhà em nó ở đâu rồi, ông cứ việc lại bắt nó, hà tất phải cần đến chúng tôi! Lạy ông vạn lạỵ
Hổ nhảy lên chồm chỗm, gầm gừ như thất ý, hành hạ hai kẻ bạc mệnh một lần nữạ Lại than khóc, cầu xin:
- Em nó còn nhỏ dại, ông tha cho nó? Vả nó xấu xí, hát còn kém cỏi lắm dở hơn tôi nhiều, ông bắt nó làm gì. Nó còn thơ, da thịt hôi tanh, lại là đàn bà, bẩn thỉu, ông xơi mà làm chỉ Ông tha cho nó.
Đó là lời cô Huyền, Hổ nghe nói thế thì gầm thét lên, đánh, tát cào cấu túi bụị Hai oan hồn vừa tránh vừa né, vừa xin:
- Lạy ông muôn vạn lạy! Tha cho chúng tôi, chúng tôi xin dẫn ông lại bắt nó!
Hổ hất hàm, nhìn chõ vào mặt hai oan hồn, như hỏi cách bắt ra làm saọ Có tiếng thưa lại:
- Canh ba đêm nay, giờ tý ông ngồi ở dưới thềm. Chúng tôi đến, làm cho nó đau bụng, run rủi nó xuống sàn, ra vườn đi rữa, ông sẽ vồ nó đem đị Nếu nó không chịu xuống, chúng tôi làm cho nó phải đâm đầu qua cửa sổ phía tây nhảy xuống hiên, ông cứ việc chờ ở đó, đỡ lấy nó mà yên việc. Ông có bằng lòng không?
Hổ gật đầu, lại ngồi ở võng. Đàn hát nữạ.
Tôi xem chừng kíp giờ lắm, chả mấy chốc đến canh ba; nếu tôi không về ngay, e mạng cô nguy lắm lắm. Tôi sờ tay nải, đếm xem có bao nhiêu chiếc pháo địa lôi, thì ra tôi đem đi tất cả hơn chục cáị Tôi theo phương pháp hôm nọ, đốt hai cái ném xuống cạnh hổ, nó vùng cẳng chạy mất, mà hai oan hồn cũng biến theọ Tôi chẳng quản đêm khuya trời tối, thu thập một vài khí giới giắt vào lưng, rồi cầm mã tấu trèo xuống. Muốn cho ác thú đừng theo tôi quấy quả, cứ vài chục thước, tôi lại đốt một chiếc địa lôi cho vang động cả vùng. Đốt xong tôi chạy, chạy được quãng xa, lại ngừng lại đốt, như thế về mãi tận đây sờ lưng chỉ còn mỗi một chiếc pháọ Tôi về kịp nên mới cứu cô thoát nạn, cũng là một sự maỵ Bắt đầu từ ngày mai, cô nên nghe tôi, đừng ở nán tại đây làm gì nữạ Có và cậu em hãy theo tôi cùng về Gội, ở với mẹ tôi là hơn. Cô nghĩ thế nàỏ
Oanh Cơ bấy giờ cảm động đến cực điểm, nàng không biết lấy gì để tạ Ơn tráng sĩ đã hai lần cứu mạng cho nàng; nàng bèn thành thực thưa rằng:
- Em đội ơn anh rất dày, dẫu gan óc lầy đất cũng không đáp đền được. Ngày nay em không còn ai thân thích nữa chỉ có một đứa cháu, vậy xin tình nguyện theo anh. Nếu anh quả có lòng thương, không chê em là ti tiện, không quản em là con nhà ca kỹ, thì em xin dùng quãng đời sống sót này để hầu hạ anh, nâng khăn sửa túi đỡ đần anh, dù phải làm phận tiểu tinh em cũng cam lòng. Tấm thân băng giá này, em xin phó thác cho anh, gọi là để đáp lại mảy may tấm lòng trọng nghĩa của anh và ơn anh đã cứu mạng! Có lẽ cũng tại Trời xui khiến, nên từ buổi sơ thân, tình cờ đã chỉ bảo cho chúng ta biết thân em phải chọn anh làm chủ. Em đang lúc thụ tang, nói đến hôn thú thực là mang tội cùng với người khuất; song le, đến nỗi nước này, không thưa thực anh bấy nhiêu lời, cũng không được. Chỉ mong anh cho biết rõ một điều là anh có ưng thuận hay không, thế là đủ. Em sẽ theo anh về Nam. Bao giờ em hết tang trở rồi, lúc đó sẽ làm vợ anh, anh có đem em vào chốn rừng hoang núi thẳm em cũng cam lòng.
Vài lời tâm huyết xuất phát từ tim phổi, xin anh chớ cười em là người thô lỗ, không biết đắn đo lời nói, cũng như không biết thẹn thùng. Đối với anh, là người đã hai lần cứu em, đã săn sóc cho em trên giường bệnh trong nửa tháng trời, em còn phải e lệ ngại ngùng làm gì nữả Em một niềm kính cẩn giãi bày tâm sự hầu anh, xin anh định liệu cho em được nhờ, cho phận em nào em xin bái lĩnh phận ấy!
Câu chuyện Oanh Cơ đến đây là hết, chả biết tráng sĩ trả lời nàng ra làm sao, chỉ biết ngày hôm sau chàng đem cả hai cô cháu nàng vượt đèo Tam Điệp đi ra Nam Định. Từ đấy, chả còn ai biết rõ tông tích Oanh Cơ nữạ Cũng chẳng biết nàng sống hay thác, còn hay mất, có thoát được nạn hổ bắt hay đã bị mãnh thú ấy tha đi vào rừng lau sậy để ăn rồi!
Duy có một điều chúng ta biết rõ, là hồn anh chị nàng vẫn thường hiện lên để đàn ca réo rắt, mà đến nay đã năm sáu chục năm rồi, hai oan hồn ấy vẫn chưa tan …
Ông Cai Móm nói xong câu chuyện, tôi trông đồng hồ trên vách thấy điểm hơn ba giờ. Ông Cai phải ngủ lại trong trại của tôi, không về nhà được. Tôi nghe nói, cũng có phần tin câu chuyện của ông đúng sự thật, vì nó ý vị và rành mạch xem chừng không phải chuyện người ta cố ý bịa đặt rạ Tuy nhiên, tín ngưỡng của tôi cũng chửa lấy chi làm vững vàng lắm. Tấm lòng hiếu sự của tôi xui tôi dò xét xem lời ông Cai nói quả có đúng không hay là chỉ như những chuyện vu vơ mà người quanh vùng này thường bàn tán? Phải trông thấy hai con ma đào kép, thì mới có thể tin rằng chuyện nàng Oanh Cơ có thực, không phải chuyện chơị Phần nhiều, người trong hạt này, họ chỉ “văn kỳ thanh” mà thôi, rồi xây nặn ra đủ các thứ cổ tích, chưa ai dám có can đảm vào rừng dò xem bóng ma bóng quỉ nó ra làm saọ
Chỉ riêng một mình tôi có can đảm ấỵ Tôi bắt ép ông Cai Móm phải đưa tôi vào cái thung lũng xưa kia làm trường săn bắn cho tay tráng sĩ đã cứu mạng nàng Oanh. Ông Cai hai ba lần ngăn tôi đừng nên đi, tôi nhất quyết không nghe, bắt ông phải dẫn đi xem cho kỳ được. Bất đắc dĩ, ông phải chiều lòng tôị Ông bèn sắm sửa đủ khí cụ và khí giới để vào rừng, rồi hai thầy trò nai nịt gọn gang, rẽ lau vạch cỏ tìm vào thung lũng. Đi mất ba, bốn giờ đồng hồ mới tới một nơi um tùm đầy cây cối, cỏ mọc cao vút, lau sậy trắng xóa, rễ cây cành cây chi chít, phải lấy dao bảy phạt bờ bụi mới vào được.
Chúng tôi tìm đến một cây cổ thụ, luồn dây qua chẻ cành đánh đu leo lên, rồi lấy dao phạt bớt lá rậm, dọn một chỗ để ngồị Chỗ đó có hai cành cây to mọc ngang, chỉ việc lấy một ít then tre hay một tấm phên gác lên trên là có cái sàn sạch sẽ tươm tất, có thể nằm ngủ được. Dọn dẹp chỗ xong rồi, hai thầy trò tháo bỏ các đồ đạc đeo trên vai, ngồi nghỉ một chốc, giở các đồ nguội ra ăn uống. Chẳng bao lâu, mặt trời xế bóng, sương bắt đầu nặng hột, tối đến lúc nào không haỵ Hôm đó là một hôm có trăng sáng vằng vặc ngồi trên cây ngắm xuống thực không còn gì thú...