bằng. Cái cảnh sương rừng rậm, tôi đã từng quen lắm, hóa nên cũng không sợ hãi kinh khủng chút nàọ Lòng hiếu kỳ làm cho tôi nhẫn nại và can đảm thêm, tôi cứ ngồi điềm tĩnh trên ngọn cổ thụ, đến xem ma sẽ hiện thế nàọ Thì giờ bằn bặt trôi, chả mấy chốc hết canh một. Các thứ tiếng chung quanh người tôi nổi lên như một cuộc hòa nhạc âm thầm ảo não, chúng nó gồm đủ cả âm thanh cao thấp, khoan nhặt, thực là hết sức lạ lùng. Tôi tuy quen ở đồng rừng, thế mà chưa bao giờ tai được nghe hết mọi thứ tiếng kêu, tiếng hú, tiếng gọi, tiếng gầm, tiếng la, tiếng thét, như trong cái đêm hôm ấỵ Giọng nói của rừng hoang là một giọng cực kỳ huyền bí; trong bóng tói âm u, tịch mịch, biết bao giống sinh vật, biết bao loài thảo mộc, giữa cuộc đua tranh vật lộn, phát ra mỗi giống mỗi loài một khẩu hiệu riêng, cái đục cái thanh, cái dài cái ngắn, để hòa thành một cái âm hưởng không tên tuổi, có thể ví được với tiếng ầm ầm, lạo xạo trong một ngày phiên chợ, hoặc trong một ngày hội hè tấp nập ở một chốn đô thành. Khó lòng tả rõ được cái vẻ ồn ào phức tạp ấy, chỉ có thể tưởng tượng ra nó mà thôị.
Giữa chốn rừng khuya, tôi có cảm giác là chung quanh người tôi có một vũ trụ đông đúc, tôi tuy không nhận được bằng mắt song thấy được bằng tai; thế giới đó bao bọc khăng khít lấy tôi, quay cuồng múa máy trên đầu tôi, dưới chân tôi, tựa hồ lấy tôi làm đích cho một cuộc khiêu vũ phi thường. Ông Cai Móm và tôi thu hết can đảm và trí tuệ, ngồi chờ xem một cuộc phô diễn hiếm có, sắp sửa xảy ra giữa cái vũ trụ hãi hùng náo động ấỵ Óc hiếu sự thực quả xui người ta làm lắm sự cầu kỳ, có khi đến quên cả sinh mệnh, chỉ có một ý định duy nhất trong tâm hồn là thỏa mản được tính tò mò, mà nếu không như nguyện được thì ngồi đứng không an, bứt rứt khó chịu lắm. Bởi thế, dẫu vào nơi hang hùm tổ rắn, để được thỏa thích thói hiếu sự của mình, ta cũng chẳng từ nan.
Riêng tôi, tính tò mò sôi nổi trong trí não, ngồi trên cây nóng lòng sốt ruột lắm, chăm chăm chú chú nhìn vào chỗ rễ cây uốn cong như chiếc võng chỉ ước sao ma hiện ngay ra cho xem mới cam tâm. Tôi đợi cũng chả lâu lắm: Vào khoảng giữa canh hai, một tiếng gầm to lớn khiến tôi phải giật nẩy mình. Vừa định thần mở mắt nhìn, tôi đã thấy ngay trên cái võng rễ cây một con cọp xám, to gấp rưỡi con hổ thường, da vằn đen vằn trắng, trông đẹp lắm. Ông tướng ấy ngồi chễm chệ như người, hai chân sau bơi bơi trên mặt cỏ để làm cho võng lúc lắc, mau lẹ vô cùng. Hai chân trước thì giơ thẳng về phía trước, không bám vào gì cả. Một chốc như thế, tôi vừa chớp mắt có một khắc con con, trông xuống lại không phải cọp xám nữa, mà là ông cụ già đầu râu bạc phới, ngồi nghiêng nghiêng trên võng, tay để vào má, xem có vẻ trầm ngâm nghiêm nghị, tựa hồ đang nghĩ ngợi sự gì.
Tóc tôi tự nhiên bỗng thấy dựng đứng cả trên đầu, một luồng khí lạnh chạy khắp các mạch máu tôi, luồn vào sống lưng tôi, tôi nắm chặt lấy cánh tay ông Cai Móm. Giữa lúc đó, ông cụ cọp già kêu lên một tiếng, như ra một mệnh lệnh. Ông vừa dứt lời, ba cái bóng không biết từ đâu, bỗng phơi phới lướt trên mặt cỏ, lại đứng trước mặt ông rồi quỳ xuống lạy ông cung kính lắm. Đó là bóng một người, hình như đàn ông thì phải, áo thâm, quần trắng, búi tóc tay ôm một cây đàn giai; và hai người nữa tựa hồ như đàn bà, quần áo trắng toát, một làn tóc đen bỏ xõa sau lưng gần chấm gót, tay cầm vật gì đen đen, trông giống một cái then gỗ nhỏ. Cả ba cầm tay nhau làm thành một cái vòng, bao bọc lấy ông cụ già ngồi võng, rồi quay cuồng chung quanh ông cụ, trông chả khác gì đèn kéo quân. Có một sự rất lạ là dưới gốc cổ thụ chi chít những rễ cây giằng buộc lấy nhau, những cành cây, những lá cỏ, không có đủ chỗ cho người thường nhảy múa được. Thế mà ba cái bóng kia khiêu vũ như không có gì vướng cả, họ cứ lâng lượn phiêu phiêu trong không khí nhẹ nhàng dễ dãi vô cùng. Họ lượn quanh mình ông cụ một hồi, ông cứ ngồi gật
gưỡng thưởng thức tấn trò ấy như làm thú lắm. Bỗng ông thét lên một tiếng nữa, to hơn tiếng khi nảy nhiềụ Sau mệnh lệnh thứ hai này, trong rừng tự nhiên hiện ra không biết cơ man nào là bóng, cái trắng lốp, cái xam xám, cái đen sì đều cầm tay nhau thành mười mấy lớp vòng tròn bay lợn mé ngoài tưởng chừng một cuộc hội hè của lũ Mọi Châu Phi khi nhảy múa chung quanh thây chết.
Thực là một quang cảnh lạ lùng hiếm có càng xem sống lưng càng thấy lạnh buốt mà tóc càng dựng ngược cả lên. Đó mới là bài học hay cho mấy kẻ tò mò hiếu sự như tôi vậỵ Tôi cứ bám chặt lấy ông Cai Móm.
Trong khi khủng khiếp, khuỷu chân tôi rủn quá, làm tôi gần quỵ xuống, phải lấy gân để đứng thẳng người lên. Ai ngờ tôi hụt chân, bước ra ngoài then tre hụt chân xuống khe sàn, suýt ngã dúi xuống trước mặt ông Hổ xám. Tôi kinh hồn thất đảm, trống ngực đánh như tim sắp vỡ, hoảng hốt kêu lên một tiếng vang trờị Ông Cai Móm phải vội vã đỡ lấy tôi, ôm chặt lây nách tôi nâng lên, nếu chỉ chậm một khắc tôi sẽ bị lăn xông đất. Tôi kêu thét lên xong, chết ngất đi, không biết trời đất là gì nữạ Đến lúc tôi tỉnh dậy, thấy mình đương nằm trong buồng, trên chăng dưới nệm, và trước mặt có Lệ Thi, Thu Nhi, cả hai đều ra vẻ lo ngại, trong khi ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở góc phòng, ông Cai Móm vừa chúm chím cười vừa nhai bỏm bẻm một miếng trầu đỏ loét:
- Nào, thầy đã bằng lòng chưả Lần sau có muốn vào rừng xem cọp nữa không, thì con lại dẫn thầy đi lần nữa!
Từ đấy trở đi, anh xem, tôi chẳng dám không tin lời ông Cai Móm, nhưng thực quả là các vàng cho kẹo, tôi đây cũng hết đám vào rừng. Đêm đêm tôi chỉ cùng Lệ Thi ngồi điềm tĩnh ở một xó nhà, lắng tai chủ ý nghe xem có nhận được điệu hát đào mà thiên hạ nhao nhao nói đến. Nhưng tôi vô duyên hết sức; cái lần đáng lẽ được nghe thì chết ngất đi, phải có người nhà cõng về tận trại, còn những lần sau thì thức suốt mấy đêm ròng mà tịnh chả thấy gì! Thế mà ai ngờ mới đến đây lần đầu, anh đã có diễm phúc nhận được ngay điệu ca nhạc đó!
Đấy, điển tích của điệu hát ấy dị kỳ là như thế, bây giờ anh đã rõ rồị Có một điều tôi đoán được sau khi theo ông Cai Móm vào rừng, là có lẽ nàng Oanh Cơ cũng chết về nạn hổ. Bởi lẽ, đúng lý ra, chỉ có hai cái bóng ma hiện lên diễn trò hầu cọp, cớ sao tôi lại thấy những bả Người thứ ba chắc hẳn là Oanh Cơ, theo anh chị chết chung một nghiệp. Song chẳng biết nàng chết bao giờ, chết nơi đâu và có lấy được ý trung nhân là tráng sĩ Lê Trọng Việt hay chăng? Điều đó hiện còn mờ ám lắm.
VÉN MÀN BÍ MẬT
Tôi ở Đồng Giao về, trong lòng lại canh cánh đeo thêm một 1 nguyện vọng thiết tha, trong ký ức lại tăng thêm một đoạn ký sử mớI; nhưng bị trôi nổi trong cuộc mưu y, mưu thực thường ngày, tôi dần dà cũng chả có thì giờ đâu nghĩ đến hai câu chuyện ở núi Gội và Đồng Giao nữạ Mãi cho đến ngày tình cờ khiến tôi gặp gỡ ông Trần Công Chất, trong một trường hợp ngẫu nhiên khi tôi đem vợ con lên nghỉ mát tại Chapạ
Riêng tôi, tôi chả muốn đi xa diệu vợi làm gì, nhưng vợ tôi, Tuyết Tiên, cứ nằng nặc đòi lên Chapa một lần cho khỏi thẹn với chị em. Không thể từ chối được, tôi đành theo ý vợ tôị
Thế là, dắt díu bồng bế ôquan san ngàn dặm, thê nhi một đoànô tôi đi nghỉ mát Chapạ Cái cảnh đi nghỉ mát mà phải đeo đàng sau một bà vợ dềnh dàng cùng một lũ con nheo nhóc, thì còn gì là thú nữả Còn gì thú nữa nếu tôi không gặp ông cụ Chất ngay trong mấy hôm đầủ.
Cái cảnh rừng núi Chapa, không có gì là rừng sâu núi thẳm cả. Chapa là một hòn ngọc là một vườn hoa cao hơn mặt đất, là một nơi khí hậu đầm ấm, thảo mộc tốt tươi, non nước hữu tình. Những đường lốI, những bãi có, nhưng rừng cây ở đó sạch như ly như lau, có thể nằm trên mà ngủ không sợ bệnh tật gì cả. Không một con ruồi không một con muỗi, loài vắt thì thật là không có hẳn. Chapa không phải chỉ đẹp ở những rừng đào, thác bạc, đẹp ở những căn nhà xinh xắn dựng chênh chếch trên sườn đồi, Chapa còn đẹp ở chỗ khách đến đây cư ngụ toàn là tay chơi hào hoa lịch sự, con gái mơn mởn như trái đào vừa chín, con trai khỏe mạnh như các hiệp sĩ đời Chiến Quốc, thỉnh thoảng đánh con ngựa thồ lên dốc núi, dừng cương đứng lẫm liệt giữa vừng thảo mộc xanh tươi, gợi cho kẻ bàng quan một bức ảnh thanh kỳ, tưởng chừng có thể làm sống lại một thời oanh liệt của lịch sử …
Trước khi mắt được ngắm phong cảnh Chapa, ta hãy vượt hết một con đường xoắn ốc chừng ba mươi nhăm cây số, ngùng ngoàn lượn quanh sườn đá theo hình chữ chi, khúc khuỷu, cong queo, có từng đoạn chênh vênh hết sức. Trong cái thú đi chơi Chapa, có lẽ khoái lạc là con đường ấy cũng dự một phần. Một bên là sườn núi cheo leo hiểm hóc, một bên là hang sâu vực thẳm cây cối um tùm, mọc chi chít hai bên bờ một dải suối khổng lồ nước cuồn cuộn chảy nhanh như xuống thác, đương chảy thỉnh thoảng lại vấp phải một thân cây đổ bắc ngang qua khe, hoặc một tảng đá nhẵn lì nằm ngay giữa long, khiến vì thế lại bồng bột nhảy chồm lên, bọt bắn tung tóe trắng phau như muôn ngàn tia bạc … Trong khi đi đường xe ô tô không chỗ nào mở được máy ba cả, phải cứ mở máy hai, sè sè cắn lấy đường thong thả lên dần. Đi chừng ba mươi ba, ba mươi bốn cây, khí hậu vẫn còn như thường, trong người vẫn còn thấy nực như khi chưa lên núi; thế mà gần đến địa hạt Chapa, thì tựa hồ như có phép tiên biến hóa, khí hậu thấy dịu đi ngay, mình bỗng cảm thấy hơi lành lạnh. Một khi tới hẳn nơi rồi, sự mát mẻ khoan khoái không tả xiết được. Chỉ từ sáng đến chiều, xem trong người cũng đã thấy khác ngay; nào là nhức đầu, khó ở, sổ mũi, hắt hơi, những bệnh vặt đó biến hẳn đi như bị thánh dược xua đuổi; đi chơi chỉ một chốc về nhà ăn cơm đã khỏe bằng hai ngày thường, mà sự tiêu hóa cũng rất lưu thông, không bị bí, bị trệ như ở chốn thị thành dưới chợ.
Nghỉ dưỡng sức mà lên Chapa, chả mấy chốc lành mạnh không cần uống thuốc, tinh thần mình cũng nhờ khí hậu mà sáng suốt tỉnh táo thêm. Tôi chỉ được lên Chapa có một thời hạn mười lăm ngày, khi về lấy làm quyến luyến, tiếc rẻ, không muốn về nữạ Nếu không có vợ tôi, Tuyết Tiên, nhất định bắt tôi phải trở xuống Hà Thành, thì có lẽ tôi cứ ở lì tại Chapa, dẫu phải sống nghèo nàn kham khổ cũng cam lòng – chúng tôi đi chơi là do sự tình cờ, ai ngờ sự tình cờ ấy rất hữu ích cho tôi, giúp tôi được đủ vật liệu viết xong quyển tiểu thuyết nàỵ Tôi đương bị tâm trí bứt rức vì chưa tìm được ra bí thuật để giải quyết một vấn đề mà óc tôi đang suy tính: vấn đề tìm ra nguyên ủy của câu chuyện tráng sĩ không đầu ở núi Gộị May thay đặt chân lên đất Chapa tính tò mò hiếu sự của tôi được thỏa mãn đến cực điểm; không những tôi gây dựng lại được một đoạn bí sử ngày nay đã bị vùi lấp hẳn trong gầm dĩ vãng xa xăm u ám, không những tôi đem được hẳn bí sử ấy ra ánh sáng, tôi còn được hạnh phúc biết rõ sự tích của hai bóng oan hồn ở núi Gội, và dây liên lạc của sự tích đó với câu chuyện rùng rợn tôi đã nghe ở Đồng Giao trong cái đêm mưa gió được nằm êm ấm bên cạnh Lệ Thi và Thủỵ
Người đàn ông giúp tôi đi ngược dòng thời gian để làm sống lại cuộc đời Oanh Cơ và hai tráng sĩ bị tử hình, người đó là ông cụ Trần Công Chất, một cụ già thâm nho thuộc về thế hệ trước, sống lạc loài ngơ ngác trong xã hội mới này, nhưng vẫn thành kính nhẫn nại thờ quan niệm cổ hủ của ông cha, không bị ánh sáng lộng lẫy rực rỡ của kim tiền làm lu mờ mất tính tình, nhân cách. Tôi ngẫu nhĩ được gặp cụ Chất trên chuyến xe lửa Hà Nội – Lào Kay, giữa lúc đang bồn chồn thấp thỏm không biết vợ chồng chúng tôi sẽ trú ngụ Ở đâu một đêm trước khi đáp ô tô lên Chapa nghĩ mát. Tuyết Tiên và tôi bàn tán cùng nhau vê cách xử sự thế nào trên đất lạ, hai chúng tôi đều tỏ vẻ lo ngại, rì rầm suy đi tính lại mãi không thôi, nhất là khi tàu sắp tới ga Phố Mới, sau một ngày lúc lắc trên một con đường gay go khúc khuỷu vô cùng.
Thấy dáng bộ lúng túng của Tuyết Tiên xoăn xoe chung quanh mấy đứa con thơ và mấy va li đồ đạc, hết dặn bảo các con lại điểm sửa soạn hành lý, một ông cụ già ngồi ngay cạnh chúng tôi từ ga Hà Nội, bỗng tự nhiên quay lại phía tôi:
- Tôi xem chừng hai thầy cô đi nghỉ mát Chapa thì phả i!
- Thưa cụ vâng! Thưa cụ cũng đi Lào Kaỷ
- Không, tôi về Chapa chớ? Tôi có nhà ờ đó! Tôi di cư lên Chapa đã mười mấy năm nay rồi, từ lúc nhà nước mới bắt đầu khai khẩn hạt ấỵ
- Vậy ạ? Tha cụ chúng cháu hỏi khí không phải: chúng cháu lên nghỉ mát lần đầu, chả có ai quen thuộc cả, muốn xin cụ cho chúng cháu ở đậu ít ngày, chẳng hay như thế có phiền chăng? Cụ có thể vui lòng dung nạp chúng cháu chăng?
Ông cụ cười khà khà ra vẻ nhân từ hiền hậu lắm:
- Nếu thế thì quí hóa quá! Thầy cô có lòng yêu hạ cố đến tệ xá thì còn gì bằng! Tôi tuy già rồi, nhưng nhà vắng lắm, chỉ có một đứa con gái đã lớn và một thằng con nhỏ mà thôị Thầy cô ở chơi làm bạn với tôi, tôi rất vui lòng. Tôi xin làm hướng đạo cho thầy cô!
Tuyết Tiên hết sức mừng rỡ, vội vàng cho hai con lại lạy chào ông cụ, cụ vuốt ve hai cháu một cách rất âu yếm tưởng chừng như cháu ruột cụ vậỵ Tàu đến ga Lào Kay cụ săn sóc cho cả bầu đoàn chúng tôi, dắt chúng tôi về ở Thiên Nhiên khách sạn. Chúng tôi thuê hai phòng, một phòng cho vợ con tôi, một phòng cho tôi và ông cụ cơm nước xuềnh xoàng cho qua bữa, rồi tôi xin phép ông bạn già mở va li thiết một bàn thờ Phù dung dới sàn gạch.
Tôi lấy làm sung sướng đến tột bực khi nghe ông cụ tỏ ra cho tôi rõ ngài cũng là một tín đồ của Nương tử; cho hay những kẻ cùng chung quan niệm thường hay được hội nhau trong những dịp tình cờ! Nếu thế, hà tất tôi phải nằm đất để nhường giường cho ông cụ; chúng tôi khiêng bàn tĩnh lên chiếc phản độc nhất của gian phòng, để cùng nhau được hưởng khoái lạc lim dim “đi gió về mây” sau một cuộc hành trình khó nhọc.
Thực không bao giờ tôi ngờ được rằng tôi có thể, vì hai bửa nha phiến, mà ngẫu nhĩ viết lên một pho tiểu thuyết; giá cứ mỗi lần cùng chị Phù dung tình tự, tôi cũng được diễm phúc như thế, thì dù phải hết sức khổ sở điêu linh vì thuốc phiện, tôi cũng không hối hận than thở nỗi gì! Tối hôm đó, câu chuyện của cụ Chất và tôi chỉ loanh quanh ở những vấn đề làm ăn, ở lai lịch tôi và thân thế cụ Tôi được biết qua loa, cụ là nòi Thổ, mẹ nưgời bản xứ mà cha người Kinh; thủa bé có xuống Hà Thành học tập rồi được bổ đi phán sự Ở các miền Cao Bằng, Hà Giang, Lào Kay và Phong Thổ. Sau khi làm việc được hơn hai mươi năm, cụ xin về hưu, lên an cư tại Chapa, chỗ mà cụ cho là kỳ quan đệ nhất. Tôi cũng kể cho cụ nghe tông tích và chí hướng tôi, sự tích nhân duyên của Tuyết Tiên, con một nhà đại phú hào chốn kinh đô với tôi, là một nhà văn sĩ nghèo nàn nghiện ngập.
Nghe tôi nói, cụ chỉ gật gù điểm một lời rất ôn tồn, song chứa đầy triết lý:
- Chả qua chỉ là duyên nghiệp cả! Ai mà tránh khỏi nghiệp duyên tự mình, mình đã gây nên?
Điếu chú, điếu anh thì giờ êm ả bằn bặt trôi, không biết đã lướt qua bao nhiêu độ. Tuyết Tiên và con tôi ngủ im thin thít trong phòng bên cạnh, chỉ còn tôi và cụ Chất nằm lim dim, nửa mê nửa tỉnh, giữa một vùng lặng lẽ âm ụ Bỗng đâu tôi mơ màng thấy bên cạnh có bóng dáng một thiếu phụ áo quần trắng toát, tóc lòa xòa phủ kín ngang vai, giữa ngực một dòng máu tươi phọt ra đỏ sẫm. Tôi giật mình thức dậy, bồ hôi đẫm ướt cả sơ mị Ngọn đèn dầu lạc lụn bấc tỏa ra một thứ ánh sáng lờ mờ, gian phòng tối vắng đìu hiu nhuộm một vẻ thê lương ảm đạm..
Không dám chợp ngủ nửa, tôi khêu to ngọn bấc, tiêm thuốc hút để xua đuổi những tư tưởng rùng rợn đến ám ảnh tôị Khói thuốc xanh cuồn cuộn tỏa khắp phòng, tựa hồ có mãnh lực thiêng liêng gạn lọc sạch trong không gian những bóng hình ma quỉ. Tiếng kêu vo vo của điếu thuốc thu dần vào nhĩ tẩu chẳng khác gì một điệu kèn làm huyên náo quãng u tịch thê thảm của canh trường. Tiếng vo vo ấy kinh động giấc ngủ thiu thiu của cụ bạn già ngài mở choàng mắt dậỵ
- Thưa cụ xơi với con vài điếu nữa cho vui, con sợ quá, không dám ngủ.
- Làm sao mà thầy sợ?
- Con vừa chợp mắt đi, thấy ngay một bóng ma đàn bà trắng lốp, giữa ngực có một vết thương máu tuôn đỏ chóe, đến sờ tay lạnh buốt vào tay con, con giật mình tỉnh dậy bồ hôi ướt đẫm khắp mình …
- Thôi, đích thị rồi! Ấy là con gái ông Hường Quyền, bị người nhân tình ghen đâm chết trong phòng này đó! Chị ả chết đến năm nay đã mười mấy năm rồị Ra cái thứ ma chết oan lại bất đắc kỳ tử này nó sống dai dẳng thật, có khi đến mấy chục năm mà vong hồn vẫn chưa siêu linh!
- Bẩm cụ cũng tin là có mả
- Thầy hỏi lạ chửa! Có chứ sao không? Ma là giống ở cỏi âm cũng như mình là loài ở cỏi dương, có gì là lạ! Ai ở địa hạt người ấy, miễn đừng xâm phạm đến nhau, đừng làm hại đến nhau thì thôi!
- Thưa cụ, mình có làm gì họ mà họ hại mình?
- Có chớ! Nó không thể xâm phạm đến mình được, nhưng nó chòng ghẹo mình thử chơị Cũng tựa hồ như mình nói đùa con cái vậỵ Một đôi khi, có lợi cho nó, thì nó tìm kế tàn sát mình nữa, tỷ như lũ ma trành chả hạn …
- Bẩm cụ, con nghe nói trên các miền thượng du này có rất nhiều chuyện ma kỳ quặc chẳng hay có đúng hay chăng? Con tuy chưa bao giờ ở lâu tại đồng rừng, nhưng cứ như mắt con đã thấy ở núi Gội và tai con đã nghe ở Đồng Giao, thì con phải tin rằng, trong cõi âm u lạnh lẽo của linh hồn, có nhiều sự kỳ dị hết sức. Con xin kể cụ nghe hai chuyện này, may ra cụ có thể chỉ giáo cho con được chút nào bổ ích chăng, vì sống trước con bốn năm chục năm, có lẽ cụ đã từng nghe nói về hai sự tích đó?
- Vừa tiêm thuốc mời ông cụ Chất, tôi vừa dần dà kể hầu cụ hai huyền bí hiểm lạ lùng mà tôi đã tường thuật trên đâỵ Cụ như chăm chú nghe tôi lắm, thỉnh thoảng lại cười mỉm và gật gù thưởng thức lời tôị Khi thuật xong, cụ không đợi tôi phải hỏi, nói ngay rằng:
- Thầy với tôi hẳn phải có tiền duyên, nên mới gặp nhau tình cờ như hôm nay đó! Đã là bạn có duyên với nhau tôi nhẽ nào chẳng bổ chính thêm vào câu chuyện của thầy cho có ngành có ngọn, khiến thấy có thể, một ngày kia, đem hiến cho người đờị Quả như thầy đã tưởng, tôi có thể giúp thầy gây dựng lại sự tích nàng Oanh Cơ được. Hai câu chuyện thầy vừa kể, mặt ngoài tuy không có liên lạc gì mật thiết với nhau, song, bề trong chính là do một...