gốc mà ra cả.
Ai ngờ một chuyện bị chìm vào dĩ vãng ngoài năm chục năm rồi, bây giờ lại còn có người moi móc lên được? Giá thầy không gặp tôi, chuyện đó sẽ không có cỏ gì lý thú đáng ghi chép cả, nó chỉ là hai đoạn dã sử rời rạc mà thôị Đã gặp tôi, tôi đem hai đoạn ấy chắp liền làm một, biến chúng thành một thiên bi sử ly kỳ. Ngoài tôi ra, hiện thời này, thực không còn ai có thể giúp thầy làm nên việc ấy! Tôi nói ngoài tôi, bởi tôi là người độc nhất vô nhị giấu trong ký ức thiên bi sử ly kỳ đó. Thầy đã có duyên với tôi, thì tôi xin kể thầy nghe!
Ông cụ nói đến đây, ngừng lại một chút. Tôi càng nghe ông. càng như nở từng khúc ruột, tai tôi nuốt lời ông một cách thèm nhạt, ngon lành. Tôi thấy mở đầu đã khá dài, cũng hơi nóng ruột muốn đi vào đầu đề tức khắc. May sao, ông cụ Chất không để tôi mất công chờ đợị
Đêm hôm ấy, lại bên cạnh chiếc khay đèn nha phiến, cũng trong một gian phòng lặng lẽ âm u, tôi được hớt trên môi ông bạn già lai lịch của hai võ sĩ ở núi Gội, cũng như tôi đã trên môi anh Thủy, làm quen được với một đóa hoa vô cùng mỹ lệ và biết một phần sự tích của nàng Oanh Cơ!
Trong hoàn cảnh đêm đó, chỉ kém có một cái bóng yêu kiều: Lê Thị Một cái bóng khác, may sao, tự nhiên đền bù vào chỗ thiếu; Tuyết Tiên không hiểu vì đâu không nhắm mắt được, có lẽ cũng như tôi sợ con ma đàn bà bị đâm chết, nên mở cửa phòng sang nghe chõ chuyện dưới chân chồng, vẽ lên nền vàng xám của bức tường khách sạn một hình ảnh mảnh khảnh, dịu dàng, tha thướt như thông lay, buồn rầu như liễu rủ …
ĐẸP DUYÊN CẦM SẮC
Hồi ấy, nghĩa là cách đây đúng 56 năm, mùa xuân năm Giáp 1,Thân (1884), ngày 16 tháng 2, thành Bắc Ninh thất thủ về tay Pháp. Hai đạo binh dưới quyền của hai thiếu tướng De Négrier và Brière de l’Isle, một mặt qua sông Hồng Hà, theo dọc sông Đuống, một mặt ở Hải Dương, đi tàu tới Phả Lại rồi đổ bộ, cùng men bờ sông Nguyệt Cầu tiến đánh Bắc Ninh.
Trận ấy, quân Pháp chỉ mất độ tám tên binh và độ vài chục khẩu súng. Quân Tàu Cỏ Đen, núng thế, rút cả về Yên Thế, còn trơ quân An Nam thế cô, phải cổi giáp lai hàng. Một vị quan binh đứng đầu cai quản đội binh ta hồi ấy trong thành Bắc Ninh là lãnh binh Lê Vũ Khúc. Ông là dòng dõi cựu thần nhà Lê, tuy không phải tôn thất, song tổ tiên ông đã làm quan tới chức Công Khanh, ba bốn đời nối tiếp nhau trong hàng tứ trụ. Sau bốn năm thế hệ văn quan, trong họ bỗng đổi nghề nghiên bút sang nghề cung kiếm, tổ phụ Lê lãnh binh xuất thân cử võ, làm tới Ngũ quân Đô thống, thân sinh ông làm Sơn Nam Đề Đốc, đến đời ông khí nhuệ nhụt đi chút ít, ông chỉ làm tới Chánh lãnh binh thôị
Khi thành Bắc Ninh có cuộc xung đột binh đao, Lê công đứng trên mặt thành đốc thúc quân sỉ, hợp với quân Cờ Đen kháng chiến cùng binh Pháp.
Phải một tốp lính phía dưới thành bắn lên, ông bị một phát trúng dưới xương vai, một phát trúng tay phải, rơi mất ba ngón taỵ Biết mình khó lòng chống cự được nữa, Lê công bèn nhảy vào trong thành, theo đường hầm chạy khỏi chiến trường, rồi lên ngựa phóng thẳng một mạch về chỗ đất phong ấp của ông, ở cách thành Bắc Ninh hơn một dặm. Gia đình ông ở cả trong ấp đó. Ông vừa phi ngựa tới cửa chưa kịp vào đến sân thì ngã gục xuống, lịm đị Vực vào nhà ông cứ thế thiếp dần, máu chảy ra lênh láng, không trối trăng câu nào cả.
Lê phu nhân hồi đó mới non bốn mươi tuổi, bà sống với hai người con trai đã khôn lớn, một người mười bốn, một người mười haị Cậu cả tên Lê Mạnh Khôi, cậu em là Lê Trọng Việt. Hai anh em được mục kích cái chết thảm thương của thân phụ lấy làm đau đớn lắm; tuy còn thơ ấu nhưng cũng đã cảm thấy sự tử biệt sinh ly là một nỗi thường tâm thống thiết nhất trên đờị Hai anh em giúp mẹ tắm rửa cho cha, khâm liệm tử tế và an táng cho người bị chết nạn chiến tranh vì tận tâm báo quốc.
Thành Bắc Ninh bị hạ rồi, khi loạn lạc đã yên yên, ba mẹ con thu thập đồ đạc, bỏ đất phong ấp ở Bắc Ninh rút về an cư lạc nghiệp ở núi Gội, là quê quán tổ tiên hai anh em Khôi và Việt.
Về đến tổ hương, mẹ dệt cửi vá may để nuôi cho hai con ăn học, theo các trẻ con trong làng, sang đình thụ giáo một ông đồ. Hai anh em họ Lê rất nhác, chẳng bao giờ thuộc bài vở sử kinh, chỉ toàn trốn thầy đi với lũ trẻ con du thủ du thực, tìm đến chân đồi chơi đánh trận giả và tập dượt quyền cước. Thầy đồ nhiều phen căng nọc đánh cho rất đau mà hai anh em vẫn
không chừa, cứ ham mê nghề võ hơn nghề văn. Bà từ mẫu ngày ngày hết sức khuyên răn, Khôi và Việt thờ mẹ rất hiếu thảo nên lại quỳ xuống xin lỗi mẹ và hẹn sẽ ra công chăm chỉ học, nhưng đến hôm sau, vắng mặt mẫu thân thì vẫn chứng nào tật ấy như thường.
Dần dần, bà mẹ biết rằng máu truyền thống chạy trong huyết mạch hai đứa con mình còn sôi nổi hăng hái lắm, nên cũng chỉ bảo ban lấy lệ mà thôi, còn mặc cho hai anh em Khôi, Việt được tự do luyện tập gân cốt, không ngăn cản nữạ Thành thử đến năm sáu năm sau, cả hai cùng to lớn khỏe mạnh; rõ ràng một đôi lực sĩ hùng dũng, oai phong. Từ khi góa chồng, Lê mẫu làm lụng chăm chỉ, để dành để dụm, thu xếp tảo tần, khi bỏ ấp ở Bắc ra đi, có bao nhiêu của cải thu vén đem cả về Nam Định; nhờ thế cũng có ít nhiều ruộng nương phong phú, đủ túc dụng một đờị Hai anh em Khôi, Việt, kịp đến tuổi trưởng thành, bà chưa có thì giờ lo bề gia thất cho hai con thì tự nhiên lâm bệnh, rồi lúc khỏi, liệt mất cả hai chân, không làm ăn gì được nữạ Hai anh em phải ở nhà lo liệu công việc giúp đỡ mẹ già. Tuy nói là giúp đỡ, nhưng kỳ thực hai cậu ấm chả được việc gì có lợi cả, bà mẹ ngồi một chỗ mà vẫn phải để tâm coi sóc đến công chuyện hàng ngàỵ Ruộng nương thì bà cho cấy rẽ, cứ đến vụ là có gia đinh đi thu thóc lúa về, hai cậu ấm chỉ phải trông lũ người nhà, đừng để chúng ăn bớt ăn xới, thế là đủ. Lúc bán lúa cho hàng xáo, thì cũng đã có các vú bõ đếm tiền đong thóc, chả bận gì đến cậu ấm cả và cậu ấm haị.
Những buổi không phải coi sóc người nhà, ngoài vụ mùa màng và vụ bán chác, hai anh em lại chia nhau, anh ở nhà với mẹ già ba tháng, em di ngao du săn bắn nơi xa; rồi em lại trở về nhà ở ba tháng trong khi anh được tự do đi chơi đây đó. Cậu hai Việt hay vào mạn Đồng Giao săn bắn, mỗi khi cậu đi vắng, thì cậu cả có thèm thuồng lắm cũng không dám rời mẹ đi chơi nốt, chỉ quanh quẩn vào chợ Ghềnh lùng hưu nai hay chồn cáo một hai ngày mà thôị Nhưng hễ cậu hai quay gót trở về, lại tha hồ cho cậu ấm Khôi muốn vượt bể băng ngàn tới đâu mặc sức.
Một buổi sớm, cậu Việt về nhà bỗng thấy vẻ vui mừng tươi tỉnh, song chỉ vui mừng tươi tỉnh được ít hôm đầụ Vui tươi xong, cậu bỗng đâm ra thẫn thờ, vớ vẩn, tựa hồ thần hồn thần trí bị một cái gì ám ảnh; có ngày cậu buồn thỉu buồn thiu chả nói một câu nào, bà mẹ có hỏi thì cậu gượng cười chốc lát, nhưng phút sau, lại trầm ngâm mơ tưởng nhớ nhung aị Thấy anh cả đi vắng lâu, cậu lộ ra vẻ sốt tuột lăm chỉ ngong ngóng ra đứng cửa chầu chực, đợi cậu Khôi về suốt ngàỵ
Mong ròng ra ba tháng, cũng chả thấy, mãi gần sáu tháng mới gặp cậu ấm anh trở lại, tải về một xe gạc hưu nai và hai tấm da báo, một tấm da cọp và một bộ hổ cốt. Anh em chả kịp hàn huyên nữa; cậu hai thấy có anh về thì mừng quýnh vội vàng thu xếp hành lý ra đi ngaỵ Lần này cậu đi chơi có non nửa tháng đã về, đem theo một người con gái mặc tang phục, và một đứa trẻ độ 14, 15 tuổị.
Từ trước tới nay, có nhiều nhà phú hộ và danh giá trong vùng Gội, thấy hai anh em họ Lê con nhà võ tướng, và rất khôi ngô tuấn tú, có ý muốn gả con chọ Mối lái có đến nhà ngỏ lời cho Lê mẫu biết, bà cụ hỏi ý kiến hai con, song cả hai cậu, chẳng cậu nào bằng lòng lập gia đình cả.
- Lạy mẹ, anh em chúng con còn ít tuổi, có đi đâu mà vội! Mẹ còn trường thọ nữa, vì lão niên đới tật là một số rất tốt. Nếu mẹ cho phép chúng con, thì chúng con sẽ tự chọn lựa lấy người bạn trăm năm chăn gối, như thế sau này chúng con chẳng còn oán thán nỗi gì! Duyên số là một sự tình cờ mà thành, chớ biết thế nào mà chọn lựả
Lê mẫu nghe hai con trình bày như vậy, cũng vui lòng chiều ý không ép uổng nữạ Hai anh em vì trọng võ thuật, cũng chả nghĩ đến sự lấy vợ. Tới khi Việt thình lình đem một người con gái ở đâu về cả nhà đều lạ lùng kinh ngạc hết sức. Cậu hai đem nàng ấy vào lạy mẹ và lạy anh, rồi đầu đuôi sự thể thế nào, thú thật cả một lượt cho mẹ và anh rõ. Lê mẫu mới hay thiếu nữ đó là nàng Oanh Cơ quê ở làng Bàn Thạch tỉnh Thanh Hóa, bồ côi cha mẹ và hiện không còn ai thân thích họ hàng. Bà và cậu ấm cả thấy Oanh Cơ thùy mị dịu dàng lại thướt tha kiều diễm, nên rất vui lòng đẹp ý, nghĩ ngay đến sự cho phép nàng và cậu hai Việt sánh đôị Cậu hai cũng chỉ mong ước có thế, thôi lúc nghe mẹ và anh nói trúng tâm can mình, cậu bất giác đỏ một tía tai, phần vì thẹn, phần vì mừng, phần vì thương anh thương mẹ đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm của mình, không hề cản trở ý định của mình một chút cỏn con nào cả.
Cậu Việt vội bẩm mẹ là nàng Oanh còn có trở anh chị nàng bị chết trong khi vào rừng gặp cọp, phải đợi nàng trừ phục đã mới sẽ bàn đến chuyện thành thân. Từ đó, hai cô cháu Oanh Cơ ở hầu hạ Lê mẫu như hầu hạ mẹ già, không có lòng muốn đi đâu nữạ Mà cậu ấm hai cũng nhường anh đi xa săn bắn; về phần cậu, cậu chỉ muốn ờ nhà thần hôn định tỉnh bên gối huyên đường mà thôị
Hơn một năm sau, nàng Oanh Cơ mặc áo quần hồng, quấn khăn vành dây, che quạt lượt đỏ, lạy Lê mẫu hai lạy để trở nên mợ hai Việt. Lứa uyên ương mới cả ngày chỉ quấn quít lấy nhau, yêu mến nhau cực điểm, khiến mẹ già trông thấy cũng vui lòng. Trong gia đình họ Lê từ đó, càng ngày càng thêm vui, thêm thịnh; Oanh Cơ đã từ đâu đem về cho Lê mẫu sự an nhàn thư thái, đem về cho cậu Hai sự hạnh phúc êm đềm. Từ ngày có nàng, Lê mẫu không phải nai lưng cáng đáng công chuyện trong nhà nữạ Bao nhiêu việc tần tảo thu vén gặt lúa, bán thóc, một tay nàng coi sóc được hoàn hảo, vẹn toàn.
Nàng là người không những chỉ có thanh có sắc, nàng còn khéo léo đủ đường, tề gia nội trợ đảm đang khôn xiết. Nhà họ Lê có nàng thì phòng ốc cửa ngõ ngăn nắp đâu vào đấy; thềm gạch, sân hầu bao giờ cũng sạch sẽ tươm tất. đồ đạc giường chiếu bao giờ cũng ngay ngắn chỉnh tề; cơm bao giò cung ngon, canh bao giờ cũng ngọt; trong gia đình bao giờ cũng êm thắm yên vuị Lê mẫu nhiều phen ngồi bên ngọn đèn dầu đọc sách xem con dâu dệt cửI, thinh thoảng gấp sách ngừng đọc, trông Oanh Cơ một cách yêu đương âu yếm, bảo nàng rằng:
- Này nhà hai! Mày về làm dâu mẹ, mẹ chả còn có điều gì trách móc được. Mẹ bình sinh không có con gái, nay được con mẹ quí mến biết bao! Nhất là tất cả mọi việc trong nhà, con một tay thu xếp gọn gàng yên ổn cả, khiến mẹ được ăn không dưỡng lão, mẹ còn gì mà chả vui lòng? Sau này mẹ nếu thác đi, buổi lâm chung thực mẹ không ấn hận oán than gì nữa! Duy chỉ có một điều là anh con chưa có vợ, vợ chồng con thì chưa có con, nếu hai sự ấy nhất đán nhờ Trời Phật, đều được như lòng mẹ ước, thì mẹ dù nhắm mắt cũng sẽ mãn nguyện đủ trăm bề.
Bà cụ mong như vậy, ai ngờ ước mong của bà nó linh hiệu làm sao! Chẳng bao lâu, nàng Oanh thụ thai, khiến bà thiếu chút nữa mừng quá mà chết. Mãn nguyệt khai hoa, Oanh cho ra đời một đưa con gái nhỏ giống mẹ như tạc, lại được có vẻ khẳng khái lẫm liệt của chạ Trong gia đình nhờ có đứa trẻ càng tăng hạnh phúc êm vui; cậu Việt, từ buổi có con, chỉ quấn quít chung quanh mình vợ, hầu hạ con như một ông bố trung thành tận tụỵ.
Riêng chỉ có Khôi thì vẫn không quên nghề nguy hiểm, ở nhà lâu không săn bắn tập luyện là thấy chồn chân khó chịu vô cùng. Chàng thường đi đây đó suốt năm, ở nhà nhiều nhất chỉ được độ vài ba tháng. Mỗi kỳ ở nhà, Khôi lại bắt Việt theo mình ra chân đồi múa võ, sợ em lâu ngày không rèn tập thì gân cốt yếu hèn đị Bởi thế, cứ độ nào có Khối, thì Việt phải tạm xa vợ xa con một ngày hai buổi, cùng anh ra dượt võ ở ngoài đồng. Lâu dần thành một thói quen hễ cứ anh đi vắng thì thôi, lúc nào anh có nhà, Việt lại cùng anh đối thủ. Hai anh em tựa hồ rất có tin ngưỡng trong nghề quyền cước; họ thi nhau trổ tài không phải để cố ý ganh nhau, cũng không phải để khoe khoang tài nghệ mình trước mặt công chúng. Công chúng đây là vài ba người nhà quê hiền hậu, chất phác chả hiểu cung kiếm là gì. Lắm khi hai anh em họ Lê rượt nhau chạy bên mình họ, họ cũng vẫn thản nhiên điềm tỉnh cày bừa, không buồn để ý đến. Tuy họ không chú ý ngắm nhìn hai cậu ấm luyện võ, mà trong làng, từ trên chí dưới chẳng ai là người không rõ hai anh em họ Lê là một đôi tráng sĩ hùng dũng, săn bắn rất giỏi có sức đích nổi muôn ngườị Tiếng đó đồn đãi rất xa; quanh một vùng từ Bình Lục đến chợ Ghềnh, Đồng Giao, rất nhiều tay hào kiệt, rất nhiều đảng lục lâm, đều mộ tiếng cả hai chàng Khôi, Việt.
Hai chàng giỏi võ nghệ gần đến nơi tuyệt đích thế mà không bao giờ dùng sức mạnh của mình để làm một sự gì phạm pháp hoặc mưu công danh tài lợi trong đờị Hai anh em chỉ an cư ở thôn quên sinh hoạt bằng mươi mẫu ruộng và bằng nghề săn hưu, nai, beo, cọp; họ thờ mẹ chí hiếu, đối với anh em vợ con, thân bàng cố hửu chí tình, tịnh không có một dục vọng cao kỳ nào cả.
Ai ngờ đâu xử thế đến như vậy mà cả hai đều không tránh khỏi dây oan nghiệt đến chằng vào cổ; một ngày kia Khôi Việt cùng bị tình nghi phải bắt giải lên Tỉnh ly, rồi chẳng bao lâu bị khép vào án tử hình. Thực là vạ gió tai bay, chả ai hiểu vì đâu nên nỗị Có kẻ hiếu sự len lỏi vào gia đình hai cậu ấm bàn tán rằng chả qua chỉ vì Oanh Cơ mà cửa nhà phút chốc tan tành. Họ nói:
- Phàm giả những đóa hồng nhan rực rỡ và hoàn hảo quá chỉ toàn là những binh khí giết ngườị Muội Hỉ làm chết vua Kiệt, Đắc Kỷ làm chết vua Trụ, Tây Thi xui Phù Sai vong quốc diệt thân mà Bao Tự khiến U Vương táng mệnh, còn Qúi Phi thì làm Minh Hòang sống cũng như thác; thực quả đàn bà đẹp là cái mầm tai họa đến cho đời! Đến vương bá bị những vưu vật đó còn thiệt thân mất nước, nữa là người thường tránh sao khỏi nạn tan cửa nát nhà!
Câu nói ấy, tuy quá độc địa, song cũng có một phần sự thực. Sắc đẹp nàng Oanh Cơ quả là một duyên cớ trọng yếu khiến chồng và anh chồng nàng bị cái nạn đoạn đầụ Hai anh em họ Lê bình sinh hay đem nhau ra thí võ ở chân đồi làng Gội, đều bị đao phủ hành hình tại chỗ đó.
Oan hồn, sau khi lìa khỏi xác trong một trường hợp cực kỳ thảm thiết, vì uất ức nên không tài nào tiêu tán đợc, nhất là vì hai tráng sĩ chết rồi, lại không được họ hàng lập đàn cầu nguyện cho tinh thần chóng đợc siêu thăng. Hấp thụ mãi khí thiêng liêng của non sông cây cỏ, hai vong hồn đó lâu dần hóa ra một thứ ma có đủ tư cách hiện hình về được, hiện về chẳng để dọa nạt hay làm hại ai cả, nhưng chỉ để diễn lại một bài quyền xưa kia họ ngày ngày hằng tập luyện ngõ hầu khi trong cái thế hệ mới mẻ này vết tích một nỗi thương tâm uất ức của một thời dĩ vãng một nỗi đau thương do “oan nghiệt” dệt thành …
TỬ BIỆT SINH LY
Thường thường, trong xã hội cũng như trong gia đình, hễ cứ thịnh vượng quá thì càng dễ bị suy vong; cũng như một vết trên bánh xe, khi lên đến đỉnh tuyệt cao rồi thì tự nhiên tụt dần xuống dướị Hạnh phúc trong nhà không bao giờ hoàn toàn mỹ mãn quá; hoàn mỹ quá tức là một cái mầm tai nạn, bởi lẽ Hóa công hình như hay đùa ghen với sự sung sướng tuyệt đích của loài ngườị
Oanh Cơ từ ngày về làm dâu họ Lê, đem về cho họ ấy đủ mọi sự phong lưu nhàn hạ. Cửa nhà ngăn nắp thóc lúa đầy kho, tiền bạc chật hòm. Lê mẫu không còn phải lo toan gì nữạ Gia dĩ Oanh lại sinh hạ được một đưa con nhỏ, sự vui vẻ trong gia đình thực quả như pha lê không vết, ai ai cũng đều sinh hoạt đầy đủ, mãn nguyện, chẳng có nỗi gì oán thán hay ước muốn viển vông. Hoàn cảnh yên vui êm ấm đó tưởng đâu có thể lâu bền vĩnh viễn, bởi lẽ anh em cậu ấm không hề làm sự gì ám muội phạm pháp, cũng không vì bon chen danh lợi mà bôn tẩu, sinh ra các mối oan thù.
Ai ngờ đâu Trời Già không để cho yên, bỗng run rủi vạ gió tai bay đến phá nát hạnh phúc nhà họ Lê trong nhột sớm. Căn nguyên tai vạ đó rất là vô lý thế mà cũng xui nên hai kẻ mất đầu!
Số là trong buổi sơ khai, nước ta còn nhiều đấng giang hồ trộm cướp tụ tập binh lính quấy nhiễu lương dân và kháng cự cùng nhà nước. Cứ chỗ nào có rừng cao núi cả khó lòng mang quân đến tiễu trừ được là chúng quần tam tụ ngũ, bầu một tên chánh sai, rồi lập ngay một sào huyệt, một cơ sở để làm nghề không vốn muôn lờị Những nơi hiểm trở như các miền Yên Thế, Chợ Ghềnh, Đồng Giao, Phồ Cát, các mạn thượng du xứ Bắc kỳ và các hạt giáp giới với dải núi giăng màn xứ Trung kỳ, phần nhiều là có giặc cỏ, kẻ cướp ẩn nấp ở trong các truông lau, bãi sậy, các thung lũng eo hẹp ở chen vào những lớp núi cao ngất, gồ ghề dựng đứng như bức tường cheo leo, thẳng vút, các nơi hoang vu cô tịch ở phía tây hạt Đồng Giao như mấy vùng Thạch Thành, Cẩm Thủy, La Hán, Hồi Xuân, toàn là các trường mai phục có địa thế, có thắng lợi, giúp cho một tên giặc mang súng ống nấp trong hang hốc bờ bụi có thể một mình địch nổi vài chục binh linh nhà nước.
Thủa ấy, trong muôn ngàn đảng giặc cỏ lau nhau chui rúc trong kẽ rừng hốc đá, như ở các vùng núi non hiểm trở tả trên đây, có một vài đảng rất cường thịnh hiển hách, quân nhà nước lùng bắt trừ khử mãi không xong.
Có một đảng, trong các bọn tho khấu cường thính đó, gồm độ vài trăm tên lâu la dưới mệnh lệnh của một tay cuồng nho phẫn chí tên là Nguyễn Quán hoành hành ở biên giới hai xứ Bắc và Trung kỳ, nhất là ở các vùng Thạch Thành, Cẩm Thủy, Phố Cát Đồng giao; thanh thế lan dọc từ Bỉm Sơn, đến Chợ Ghềnh, ngang từ Phát Diệm tới mãi Nho Quan, Hồi Xuân và La Hán.
Đám giặc cỏ ấy thường thường vào các làng cướp bóc lương dân, hãm hiếp đàn bà con gái, phá nhà thờ, bắt cố đạo, ngang tàng đốt phá, đến đâu thì xưng hùng xưng bá, sát hại khổ chủ dọa nạt dân nghèo, bắt trâu dê gà lợn mổ xẻ làm tiệc linh đình chè chén với nhau, xong rồi vơ vét đầy túi, kéo cả đàn lẩn tránh tản mát vào các hang sâu khe hẻm trong núi, không tài nào tróc nã được. Quan quân truy tầm lùng bắt đã riết lắm, thế mà chúng vẫn chưa bị sa vào pháp luật bao giờ.
Tên đầu sỏ, Nguyễn Quán, là một kẻ không chỉ lắm mưu...