rằng nó nhớ hết những chi tiết đó…Nó đã nghe Voldemort buộc tội Đuôi Trùn phạm một sai lầm ngớ ngẩn…nhưng mà con cú đã đem lại tin lành, rằng cái sai lầm ngớ ngẩn đó đã được sửa chữa, ai đó đã chết…vì vậy Đuôi Trùn không bị đem cho rắn ăn…và nó, Harry, sẽ bị thế mạng vô đó…
Harry đã đi thẳng qua cái đầu thú bằng đá canh giữ lối vào văn phòng cụ Dumbledore mà không để ý. Nó chớp mắt, nhìn quanh và nhận ra nó đã làm gì, bèn quay bước lại, dừng chân trước cái đầu thú đá. Rồi nó nhớ ra là nó không biết mật khẩu. Nó ngập ngừng ướm thử:
“Kem chanh?”
Cái đầu đá chẳng buồn nhúc nhích.
Harry trừng mắt nhìn:
“Thôi được. Kẹo Lê? Ơ…Que cam thảo? Ong xì xèo? Kẹo thổi xịn nhất tiệm Drooble? Kẹo đủ vị hiệu Bertie Bott…Ờ mà, thầy đâu có thích mấy thứ kẹo đó hè? Ôi…làm ơn mở cửa ra đi mà. Có mở ra không?”
Harry tức tối kêu lên:
“Tôi cần gặp thầy, chuyện khẩn cấp lắm!”
Cái đầu đá cứ tỉnh bơ, lỳ ra.
Harry đá nó một cái, chẳng đạt được gì khác hơn là một cơn đau thấu trời ở đầu ngón chân cái. Nó cà thọt trên một chân, gào lên:
“Nhái sôcôla! Bút kẹo! Chùm Gián!”
Cái đầu đá bỗng nhiên sống dậy và nhảy qua một bên. Harry chớp mắt lia lịa. Nó kinh ngạc thốt lên:
“Chùm Gián thiệt hả? Mình nói đại mà đúng sao?”
Nó vội vã đi qua cái lỗ hổng mở ra trên tường và đặt chân lên bậc cầu thang xoắn bằng đá, những bậc thang này từ từ di chuyển lên cao theo vòng xoắn trôn ốc khi cánh cửa đóng lại sau lưng Harry, đem nó lên tới một cánh cửa bằng gỗ sồi bóng lưỡng có nắm cửa bằng đồng sáng choang.
Nó nghe thấy có tiếng nói vọng ra từ bên trong. Nó bước ra khỏi bậc thang, lưỡng lự chưa biết làm sao, thì nghe một giọng giọng nói:
“Cụ Dumbledore à, tôi e rằng cụ không nhìn thấy mối liên hệ, không nhìn thấy gì hết!”
Đó là giọng nói của ông Bộ trưởng Bộ Pháp Thuật, Cornelius Fudge. Ông tiếp tục:
“Ông Ludo nói hoàn toàn có khả năng là Bertha đi lạc. Tôi đồng ý là đã có lúc chúng ta tưởng là sẽ kiếm ra được bà ta, nhưng mà cũng vậy thôi, chúng ta chẳng có chứng cứ gì về trò gian lận phi pháp cả, cụ Dumbledore à, chẳng có bằng cớ gì hết. Bởi vì sự biến mất của bà ta là có liên hệ với sự việc mất tích của ông Crouch…”
Giọng quạu quọ của thầy Moody vang lên:
“Và ông nghĩ chuyện gì đã xảy ra cho ông Crouch hả ông Bộ trưởng?”
Ông Fudge nói:
“Tôi thấy có hai khả năng, Thần Sáng à. Hoặc là ông Crouch cuối cùng đã phát điên, điều này có thể lắm chớ, tôi chắc là ông cũng đồng ý, do hoàn cảnh cá nhân của ổng…ổng mất trí rồi đi lang thang đâu đó…”
Cụ Dumbledore điềm đạm nói:
“Trong trường hợp đó thì ổng đã đi lang thang cực kỳ lẹ, ông Cornelius à.”
Ông Fudge có vẻ bối rối:
“À, hoặc là…Ờ, tôi sẽ bảo lưu sự phán đoán cho đến sau khi tôi nhìn thấy nơi mà ông Crouch được tìm thấy, nhưng mà các ông nói là chỉ qua khỏi toa xe nhà Beauxbatons một quãng nhỏ thôi hả? Cụ Dumbledore, cụ biết người đàn bà đó là gì không?”
Cụ Dumbledore nhỏ nhẹ đáp:
“Tôi coi bà ấy là một nữ hiệu trưởng rất có năng lực…và là một người khiêu vũ giỏi.”
Ông Fudge nổi giận:
“Thôi mà, cụ Dumbledore! Cụ không nghĩ là cụ có thể đã nghĩ tốt cho bà ta chỉ vì lão Hagrid à? Không phải tất cả bọn họ đều trở nên vô hại cả đâu…ấy là nếu quả thật cụ có thể coi lão Hagrid
là vô hại, ngay cả khi lão vẫn khoái kết tụi quái vật.”
Cụ Dumbledore vẫn bình thản nói:
“Tôi không nghi ngờ gì bà Maxime hơn ông Hagrid cả…Tôi nghĩ có lẽ chính ông mới là người có định kiến đó, ông Cornelius à.”
Thầy Moody càu nhàu:
“Chúng ta có thể kết thúc cuộc thảo luận này không?”
Ông Fudge mất kiên nhẫn:
“Phải, phải, vậy…chúng ta hãy đi xuống sân trường xem xét thôi.”
Thầy Moody nói:
“Không, không phải chuyện đó. Cuộc thảo luận nên tạm ngừng bởi vì Potter có điều muốn nói với cụ, cụ Dumbledore à. Cậu bé đang đứng ở ngoài cửa.”
Chương 30: Cái tưởng ký.
Cánh cửa văn phòng mở ra. Thầy Moody nói:
“Chào con, Potter. Con vào đây!”
Harry bước vào. Trước đây nó đã từng vào văn phòng cụ Dumbledore một lần. Căn phòng hình tròn rất đẹp, trên tường treo đầy những bức chân dung của các ông bà hiệu trưởng tiền nhiệm, tất cả đều ngủ say, ngực họ nhẹ nhàng nhô lên xẹp xuống.
Ông Cornelius Fudge đứng lên cạnh bàn của cụ Dumbledore, mặc một tấm áo trùm vải sọc mà ông thường mặc và tay cầm cái nón hình trái dưa màu xanh biếc pha vàng chanh. Ông Fudge vui vẻ bước tới trước, nói:
“Harry! Cháu khỏe không?”
Harry nói dối:
“Dạ, cháu khỏe ạ.”
Ông Fudge lại nói:
“Chúng tôi đang nói chuyện về cái đêm mà ông Crouch xuất hiện trong sân trường. Chính cháu là người đã tìm thấy ông ta, đúng không?”
Harry đáp:
“Dạ, phải.”
Và rồi cảm thấy có giả đò như không nghe thấy câu chuyện mà mọi người đang nói thì cũng chẳng được, nó đành nói thêm:
“Nhưng con không nhìn thấy bà Maxime ở đâu hết, và bà ấy có nghề lẩn lút, đúng không ạ?”
Cụ Dumbledore mỉm cười với Harry từ đằng sau lưng ông Fudge, đôi mắt của cụ long lanh nhấp nháy.
Ông Fudge có vẻ bối rối:
“Ừ, thôi, chúng tôi sắp phải đi dạo một chút trong sân trường. Harry, cháu có thể cảm phiền cho chúng tôi…có lẽ cháu nên trở về lớp của cháu…”
Harry nói nhanh, nhìn thẳng vào cụ Dumbledore:
“Thưa thầy, con muốn nói chuyện với thầy.”
Cụ Dumbledore nhìn Harry dò xét thật nhanh. CỤ nói:
“Con chờ thầy ở đây nghe, Harry. Các thầy đi kiểm tra sân trường không lâu đâu.”
Ba người lớn im lặng đi ngang qua Harry để ra ngoài và đóng cánh cửa lại.
Sau chừng một phút hay cỡ đó, Harry nghe tiếng lộc cộc cái chân gỗ của thầy Moody nhỏ dần phía hành lang bên dưới. Nó nhìn quanh.
“Chào Fawkes!”
Fawkes là con chim phượng hoàng của cụ Dumbledore. Nó đang đứng trên một cây sào bằng vàng bên cạnh cửa sổ. Nó bự bằng một con ngỗng với bộ lông lộng lẫy màu vàng và tía. Fawkes vẫy sột soạt bộ đuôi dài của nó và nháy mắt với Harry một cách hiền lành tử tế.
Harry ngồi xuống cái ghế đặt trước bàn cụ Dumbledore. Suốt nhiều phút liền, nó cứ ngồi đó mà ngắm các ông hiệu trưởng già và các bà hiệu trưởng già ngáy pho pho trong các khung tranh, suy nghĩ đến những điều mà nó vừa nghe, và đưa ngón tay lên sờ cái thẹo của nó. Bây giờ cái thẹo đã hết đau rồi.
Không biết tại sao, nhưng bây giờ ở trong văn phòng cụ Dumbledore, nó cảm thấy bình tĩnh hơn nhiều, biết là chỉ lát nữa thôi là nó có thể kể cho cụ nghe về giấc mơ của nó. Harry nhìn lên những bức tường đằng sau cái bàn giấy. Cái nón Phân loại cũ rích vá chằng vá đụp nằm trên một cái kệ. Bên cạnh cái nón là một cái hộp kiếng đựng một thanh gươm bạc hết sức tráng lệ, với chuôi gươm cẩn những viên hồng ngọc rất to. Harry nhớ ngay đây là thanh gươm mà nó đã có lần rút ra từ cái nón Phân loại hồi nó học năm thứ hai. Thanh gươm này ngày xưa thuộc về Godric Gryffindor, người sáng lập ra nhà Gryffindor của Harry. Harry nhìn chăm chú thanh gươm, nhớ lại cái cách mà thanh gươm đã giúp đỡ nó khi mà nó tưởng đâu không còn chút hy vọng gì nữa…Bỗng Harry nhận thấy một mảng ánh sáng bạc đang nhảy múa lung linh trên cái hộp kiếng. Nó nhìn quanh xem nguồn xuất phát của ánh sáng đó, thì chỉ nhìn thấy một mảng sáng bạc rực rỡ phát ra từ một cái tủ ở đằng sau lưng. Cánh cửa của cái tủ này đóng không kín lắm. Harry ngập ngừng, liếc con Fawkes một cái, rồi đứng dậy, đi ngang qua văn phòng, kéo cánh cửa tủ ra.
Bên trong cánh cửa là một cái chậu cạn bằng đá, có những nét chạm khắc kỳ cụ quanh mép: những cổ tự và những ký hiệu mà Harry không nhận ra được. Ánh sáng bạc lung linh xuất phát từ bên trong cái chậu, một thứ mà Harry chưa từng nhìn thấy trước đây. Nó không thể nói rõ cái chất đó là chất lỏng hay chất khí. Đó là một thứ bạc sáng trắng và chuyển động không ngừng. Bề mặt của chất đó xôn xao như mặt nước gió đùa, và rồi lại tựa như mây, nó tách ra và cuộn lại mượt mà. Cái chất đó giống như ánh sáng làm bằng chất lỏng – hay giống như gió làm bằng chất rắn – Harry không thể nào kết luận được.
Nó muốn sờ vào cái đó, để xem cảm giác như thế nào, nhưng kinh nghiệm về thế giới pháp thuật trong gần bốn năm qua đã dạy cho Harry biết là thò tay vô một cái chậu đầy một thứ mà mình không biết là cái gì thì đúng là một trò ngu ngốc. Vì vậy nó rút cây đũa phép từ bên trong áo chùng ra, hồi hộp nhìn quanh văn phòng một cái nữa, rồi lại nhìn cái chất bên trong chậu, xong chọc thử cây đũa phép vô trong đó.
Bề mặt của cái chất óng ánh bạc trong chậu bắt đầu cuộn xoáy lên rất nhanh.
Harry cúi xuống gần hơn, đầu nó thò tuốt vô trong tủ. Cái chất như bạc ấy dần trở nên trong suốt, ngó giống như thủy tinh vậy. Harry ngó xuống, tưởng nhìn thấy đáy chậu bằng đá – nhưng lại thấy dưới bề mặt của cái chất bí mật đó là một căn phòng cực kỳ lớn, một căn phòng mà nó thấy như thể nhìn qua một cái cửa sổ tròn ở trên trần nhà.
Căn phòng được chiếu sáng mờ mờ; Harry nghĩ có lẽ căn phòng này nằm dưới đất, bởi vì không thấy cửa sổ nào hết, chỉ có những ngọn đuốc thắp trên những giá đuốc, giống như những cây đuốc thắp sáng những bức tường của lâu đài Hogwarts. Harry cúi mặt xuống thấp đến nỗi mũi nó chỉ cách cái chất trong suốt đó chừng một phân, và nó thấy từng hàng từng hàng phù thủy và pháp sư đang ngồi quanh, dọc theo những bức tường, trên những cái có vẻ như là những băng ghế được nhô lên cao thấp tùy theo địa vị. Ở ngay chính giữa phòng là một cái ghế trống. Cái ghế có cái vẻ gì đó khiến cho Harry có cảm giác ớn ớn. Quanh tay ghế là xiềng xích, như thể vẫn dùng để trói người ngồi vào đó.
Chỗ này là đâu? Chắc chắn không phải là trường Hogwarts rồi. Harry chưa từng thấy một căn phòng nào như vậy ở đây, trong lâu đài này. Hơn nữa, đám đông trong căn phòng bí mật dưới đáy chậu toàn là người lớn, và Harry Potter biết là không thể có nhiều giáo viên như vậy ở trường Hogwarts. Nó nghĩ, có vẻ như họ đang chờ đợi cái gì đó, mặc dù nó chỉ có thể nhìn thấy cái chóp nón mà họ đội, nhưng tất cả các gương mặt dường như đều nhìn về một hướng, và không ai nói chuyện gì với nhau hết.
Cái chậu thì hình tròn, mà căn phòng Harry đang quan sát lại hình vuông, nên Harry không biết được điều gì đang xảy ra ở mấy góc phòng. Nó chồm tới sát hơn, thòng đầu xuống cố gắng nhìn…
Chóp mũi của nó đụng vào cái chất kỳ lạ mà nó đang nhìn xuyên qua.
Văn phòng của cụ Dumbledore bỗng nhiên chòng chành lắc lư dữ dội – Harry bị quẳng tới trước và cắm đầu vô cái chất bên trong chậu…
Nhưng đầu nó không dộng trúng đáy chậu, mà nó té xuống, rớt xuyên qua cái gì đó đen hù và lạnh như băng; như thể nó bị hút vô một cái vực nước xoáy tối đen…
Rồi bỗng nhiên, Harry nhận thấy nó đang ngồi, trên một cái băng ghế ở cuối căn phòng dưới đáy chậu, một cái băng ghế nhô cao hơn những băng ghế khác. Nó ngước nhìn lên trần nhà bằng đá, tưởng như nhìn thấy cái cửa sổ tròn mà hồi nãy nó đã chăm chú nhìn xuyên qua, nhưng bên trên chẳng có gì khác hơn một tấm trần bằng đá chắc chắn và tối đen.
Harry nhìn quanh, vừa thở nhanh vừa thở mạnh. Không một pháp sư hay phù thủy nào nhìn nó hết. ( Ít nhất cũng phải có đến hai trăm người cả thảy.) Không có người nào có vẻ để ý thấy một thằng nhóc mười bốn tuổi vừa lọt từ trần nhà xuống ngồi giữa họ. Harry quay sang vị pháp sư ngồi bên cạnh nó trên băng ghế và thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc, một tiếng kêu vang dội khắp căn phòng yên tĩnh.
Nó đang ngồi ngay kế bên cụ Albus Dumbledore.
Harry vội nói giọng lắp bắp líu quíu:
“Thưa thầy! Con xin lỗi…con không có ý định…con chỉ dòm vô cái chậu ở trong tủ…con…đây là đâu hả thầy?”
Nhưng cụ Dumbledore không nhúc nhích cũng không trả lời. Cụ hoàn toàn phớt lờ Harry. Như tất cả mọi pháp sư và phù thủy đang ngồi trên băng ghế, cụ Dumbledore nhìn đăm đăm vào cái góc đằng xa của căn phòng, ở đó có một cánh cửa.
Harry cũng nhìn cụ Dumbledore, hết sức lúng túng, rồi nhìn quanh cái đám đông lặng lẽ đang chăm chú đó, rồi lại nhìn cụ Dumbledore. Và bỗng nhiên đầu óc nó chợt lóe sáng…
Trước đây có một lần, Harry đã nhận thấy nó ở một nơi mà không ai có thể nhìn thấy hay nghe được tiếng nó. Lần dó, nó đã chìm đắm vô một trang nhật ký bị phù phép, vô ngay trong ký ức của một người khác…và lần này chuyện tương tự dường như đang xảy ra, trừ khi nó nhầm to…
Harry giờ bàn tay phải lên, ngập ngừng, rồi hăng hái vẫy lia lịa ngay trước mặt cụ Dumbledore. Cụ Dumbledore không hề chớp mắt, không hề quay lại nhìn Harry, cũng không hề nhúc nhích chút nào. Và điều đó, theo ý kiến của Harry, coi như đã giải thích rõ vấn đề rồi. Cụ Dumbledore không đời nào phớt lờ nó như vậy. Hẳn là nó đang ở trong ký ức của một người nào đó, và cụ Dumbledore đây không phải là cụ Dumbledore hiện tại. Nhưng mà chắc cũng không đến nỗi là xưa lắm…Cụ Dumbledore ngồi kế bên nó đây cũng đã râu tóc bạc phơ y như cụ Dumbledore hiện giờ. Nhưng mà chỗ này là chỗ nào? Tất cả những pháp sư và phù thủy ở đây đang chờ đợi cái gì? Harry nhìn quanh một cách kỹ lưỡng hơn. Như nó đã nghi ngờ khi còn quan sát từ bên trên, căn phòng này hầu như chắc chắn là nằm dưới lòng đất, Harry nghĩ, giống như một căn hầm hơn là một căn phòng. Không khí trong phòng ngột ngạt và ảm đạm. Trên tường không có bức tranh nào hết, cũng không có trang trí nào khác. Chỉ có hàng loạt băng ghế, nhô lên cao thấp khác nhau trong khắp căn phòng, tất cả đều được sắp đặt ở vị trí sao cho đều có tầm nhìn rõ ràng hướng về cái ghế đầy xiềng xích quanh tay ghế.
Harry chưa kịp đi tới kết luận nào về cái chỗ mà mọi người đang ngồi đây là đâu, thì nó nghe có tiếng chân. Cánh cửa ở tuốt góc đằng kia của căn hầm mở ra và ba người bước vào – hay nói chính xác là một người đàn ông và hai Giám ngục Azkaban.
Bên trong thân thể Harry chợt lạnh giá. Những Giám ngục Azkaban là những sinh vật cao lớn, đeo mũ trùm kín mặt. Họ lướt chầm chậm về phía cái ghế trống ở giữa phòng, mỗi giám ngục xốc một cánh tay của người đàn ông bằng bàn tay trông như chết ngắc thối rữa. Người đàn ông bị họ xốc đi hầu như sắp chết giấc, và Harry cũng không chê trách ông ta được…Nó biết đây chỉ là ký ức nên mấy giám ngục Azkaban không thể chạm vào nó, nhưng mà nó vẫn còn nhớ quyền lực của bọn giám ngục đó quá rõ. Đám đông đang chăm chú nhìn hơi bị dội lại khi hai Giám ngục Azkaban đặt người đàn ông trên chiếc ghế xiềng xích rồi rút lui khỏi căn phòng. Cánh cửa đóng mạnh lại sau lưng họ.
Harry nhìn xuống người đàn ông ngồi trong chiếc ghế và nhận ra đó là ông Karkaroff.
Không giống như cụ Dumbledore, ông Karkaroff trông trẻ hơn nhiều; mái tóc và bộ râu dê hãy còn đen. Ông không khoác áo lông thú láng mượt, mà mặc một bộ áo chùng mỏng rách te tua. Ông đang run rẩy. Ngay trong lúc Harry đang nhìn, xiềng xích trên tay ghế thình lình sáng lên vàng chóe và vươn dài ra như rắn, tự quấn vào cánh tay ông Karkaroff, trói ghịt ông vô cái ghế.
Bên trái Harry vang lên một giọng cộc lốc:
“Igor Karkaroff!”
Harry quay đầu lại nhìn và thấy ông Crouch đứng lên ở giữa băng ghế bên cạnh nó. Tóc ông Crouch cũng đen, mặt ông không đến nỗi nhăn nheo lắm. Trông ông gọn gàng và lanh lợi. Ông Crouch nói:
“Ông được đưa từ nhà ngục Azkaban đến đây để trình chứng cứ cho Bộ Pháp Thuật. Ông đã khiến cho chúng tôi hiểu rằng ông có những thông tin quan trọng muốn cung cấp cho chúng tôi.”
Ông Karkaroff cố gắng hết sức ngồi thẳng lên, dù bị trói chặt vô ghế.
“Thưa ngài, tôi có thông tin.”
Mặc dù giọng ông Karkaroff rất hoảng sợ, Harry vẫn có thể nghe được cái âm điệu giả dối ngọt xớt quen thuộc trong giọng nói đó.
“Tôi mong mỏi mình có ích cho Bộ Pháp Thuật. Tôi mong muốn được giúp sức. Tôi…tôi biết Bộ Pháp Thuật đang cố gắng để…để truy quét nốt những kẻ cuối cùng trong đám ủng hộ Chúa tể Hắc ám. Tôi rất sốt sắng muôn trợ giúp các vị trong bất cứ trường hợp nào tôi có thể…”
Tiếng rì rầm lan ra trong đám pháp sư và phù thủy ngồi trên băng ghế. Một số đang quan sát Karkaroff với sự thích thú, những người khác tuyên bố không tin nổi. Sau đó, Harry nghe, rất rõ ràng, từ phía bên kia của cụ Dumbledore, một giọng gầm gừ quen thuộc thốt lên:
“Rác rưởi!”
Harry chồm tới trước để có thể nhìn qua cụ Dumbledore. Thầy Moody Mắt-Điên đang ngồi bên đó. Hình dáng của thầy Moody Mắt-Điên này khác biệt một cách đáng chú ý. Thầy không có một con mắt phép; mà có hai con mắt bình thường. Cả hai con mắt đó đều đang nhìn xuống ông Karkaroff, và cả hai con mắt đó đều nheo lại trong sự căm ghét dữ dội.
Thầy Moody nói nhỏ với cụ Dumbledore:
“Ông Crouch sắp thả hắn ra. Hắn đã thỏa thuận với ông ta. Tôi mất sáu tháng để tóm được hắn, để rồi ông Crouch thả hắn ra, miễn là hắn phun ra đủ những cái tên mới. Tôi thấy, chúng ta cứ nghe thông tin của hắn, rồi sau đó thẳng tay quẳng hắn trả cho bọn Giám ngục Azkaban.”
Cụ Dumbledore khịt ra một âm thanh bất đồng nho nhỏ từ cái mũi khoằm và dài của cụ. Thầy Moody Mắt-Điên mỉm cười nhạo báng:
“À, quên, tôi quên mất là cụ không thích bọn Giám ngục Azkaban, đúng không, cụ Dumbledore?”
Cụ Dumbledore bình thản đáp:
“Đúng. Tôi e là tôi không thích họ lắm. Từ lâu tôi đã cảm thấy Bộ Pháp Thuật sai lầm khi liên minh với những sinh vật như vậy.”
Thầy Moody nhẹ nhàng nói:
“Nhưng với bọn rác rưởi này…”
Ông Crouch đang nói:
“Ông Karkaroff, ông nói ông muốn chỉ điểm tên bọn chúng, vậy chúng tôi đang nghe đây.”
Ông Karkaroff vội vàng nói:
“Ông phải hiểu rằng Kẻ-mà-ai-cũng-biết-là-ai-đấy luôn luôn điều hành theo cách bí mật nhất…Hắn muốn là chúng tôi…Ý tôi nói là đám đồ đệ của hắn, và tôi giờ đây rất tiếc, tiếc một cách sâu sắc, là tôi từng đứng trong số đó…”
Thầy Moody khinh bỉ bảo:
“Nói tiếp đi.”
“…chúng tôi không bao giờ biết tên họ của đồng bọn…chỉ có một mình hắn biết chính xác tất cả chúng tôi là ai…”
Thầy Moody lầm bầm:
“Đó là một biện pháp khôn ngoan, chẳng phải sao? Để ngăn chặn những kẻ trở mặt như mi, Karkaroff, khỏi bán đứng cả lũ chúng nó.”
Ông Crouch nói:
“Nhưng ông nói là ông có một số tên họ muốn chỉ điểm cho chúng tôi kia mà?”
Ông Karkaroff nói không kịp thở:
“Dạ, tôi…tôi có mà. Và đó là tên của những tay chân quan trọng của hắn, tôi xin lưu ý quí vị điều này. Đó là những người mà tôi tận mắt chứng kiến họ nhận mệnh...