nay hai ba ngày không? Vậy mà khi đến lúc tôi lấy ra làm nó đã bị vặn vẹo như con rắn. Không ai có thể điều khiển được. Nó lao về phía người sử dụng và truy đuổi người đó nữa. Mac buộc phải chạy trốn nó! Còn điều này nữa, vừa rồi cả ngôi nhà tràn đầy những khói lá thuốc.
- Có hỏa hoạn à?
- Không thưa ngài, không hề có lửa mà chỉ có khói. Khói hôi thối như bốc ra từ rác bị thiêu hủy. Rồi một lúc sau nó hạ xuống khiến không ai làm việc được trong suốt một giờ.
Nói xong người quản đốc chờ, cho rằng những lời nói của ông Bailly cho biết ý kiến. Nhưng ông vẫn im lặng, vì thế Jake Kowalek nói tiếp:
- Còn một việc khác nữa, thưa ngài. Một công nhân của tôi đã khám phá được dưới căn nhà có một loại như phòng giam, có thể có nhiều phòng giam
với những khoan sắt được đính trong tường, những máy móc mà tôi chưa từng thấy, khiến tôi lạnh cả lưng. Tình trạng lúc này là như thế đó thưa ngày. Thật không vui chút nào. Nhiều công nhân của tôi không làm việc. Họ nói rằng cái quán này bị ma ám.
Jake Kowalek lại chờ câu trả lời. Rồi ông ta chợt gọi:
- Thưa ông chủ! Ông chủ ơi… Ông ta đưa ống nghe ra khỏi tai. Quan sát nó, nhíu mày, rồi thét vào ống nghe:
- Ông chủ! Ông chủ ơi!
- Nhẹ nhàng một chút nào, đồ to mồm! – Đến lượt ông Bailly thét lên. – Anh làm thủng màng nhĩ của tôi mất!
Ông quản đốc phàn nàn:
- Tôi nghĩ rằng điện thoại bị cắt. Nào, theo ngài, ta phải làm gì đây?
- Nghe đây, anh bạn. Anh đã nhận phá hủy nó và càng nhanh càng tốt có phải không nào? Nếu như anh không làm được, tại sao anh không bỏ một que diêm đang cháy trong một góc nào đó… do bất cẩn?
Jake Kowalek cười gằn:
- Này, ngài Bailly, không thể làm như thế được! Ông không thể đòi hỏi tôi làm việc đó!
- Tại sao không?
- Này nhé, ngôi nhà này được làm bằng gỗ như cẩm lai, gỗ lim, gỗ tếch, gỗ mun… toàn những loại gỗ quý. Tất cả một số tiền khổng lồ đã đổ vào đó. Chỉ một điều phiền phức nhất đó là khi phá hủy nó… không thể được! Thí dụ như tôi đã bố trí hai công nhân lên tháo máy nạp bằng gỗ. Chúng tháo những được những tấm đầu. Nhưng, bên dưới có những tấm khác mà không làm chúng nhúc nhích được.
- Tại sao?
- Làm sao tôi biết được.
Ông Bailly lặng im vài giây rồi hỏi:
- Những tấm lợp đó bằng gì vậy? Bằng vàng chăng?
Jake Kowalek bắt đầu cảm thấy cuộc đối thoại có phần dễ chịu hơn. Đây là lần đầu tiên anh nói chuyện một cách thoải mái với ông chủ của mình.
- Ồ, không! – Anh đáp lại. – Không phải bằng vàng! Chúng chỉ bằng gỗ mun.
- Bằng gỗ mun ư? – Ông Bailly sửng sốt hỏi lại. – Ai giàu mà ngu, sử dụng gỗ mun trong sườn một mái nhà như vậy?
- Thì người cất ngôi nhà ấy chứ ai. Tôi nghĩ rằng anh ta muốn nó tồn tại cả nghìn năm. Và tin tôi nếu như không tìm được cách hạ nó thì nó sẽ tồn tại hàng nghìn năm thật đó.
Lại im lặng, lần này kéo dài khá lâu khiến ông quản đốc lo ngại gọi lớn:
- Ông chủ… Này! Ông chủ ơi…!
Không có câu trả lời, ông Bailly ấn mình sâu trong ghế bành, trầm tư suy nghĩ, trong lòng ông đang lộn xộn những từ kèo, cột, mun, trắc, cẩm lai, nhà bị ma ám, lợi nhuận quan trọng cụ thể, hồn ma. Cái từ “hồn ma” cứ ám ảnh mãi trong đầu óc của ông… Cuối cùng khi ông Bailly nói lại, giọng của ông thật dịu dàng, yếu ớt không còn chút âm hưởng nào của vá than rơi trên sàn xe.
- Được, tôi nghe đây Kowalek.
- Còn bọn công nhân của tôi thì sao, thưa ngài? Tôi có ý kiến là ta nên cho họ về nhà sau khi trả lương ngày mai. Nếu như ta không làm như vậy thì ngày thứ hai không còn ai làm việc ở trong công trường nữa. Ngài có thể tin nơi tôi, công nhân chán ngấy công việc ở đây rồi!
Jake Kowalek nói thêm :
- Hơn nữa cũng sắp đến giờ nghỉ rồi… – Được rồi đồng ý thôi Kowalek.
- Nhưng thưa ông chủ, ngài không muốn đến đây sao? Chính ông sẽ đánh giá được mọi việc. Dĩ nhiên với điều kiện không còn khói và mùi thối sẽ hoàn toàn bay mất.
- Được rồi, đồng ý thôi Kowalek. Thật không may, tôi phải đi, máy bay sẽ cất cánh trong một giờ nữa.
- Thôi thì mặc kệ nó… – Tôi sẽ về vào trưa thứ hai… có thể hơi muộn một chút. Lúc đó tôi sẽ đến xem. Hãy cố gắng cho mọi việc suôn sẻ cho đến lúc tôi trở về nhé.
- Xin ngài cứ tin ở tôi.
Ông Bailly buông máy xuống và thở dài mệt nhọc, ấn mình thật sâu trong ghế bành. Gương mặt ông biến sắc do xúc động. Ông cắn môi dưới và lầm bầm nhìn chăm chăm vào chiếc điện thoại :
- Bằng gỗ mun! Những tấm lợp nhà bằng gỗ mun!
Hai đứa trẻ Henry Oberteuffer và John Jones dừng lại cách quán “Đầu Heo Rừng” khoảng ba mươi mét. Chúng thấy những người công nhân miễn cưỡng đi vào quán rượu rồi bước ra mang theo đủ mọi dụng cụ, ném chúng vào trong xe tải và lần lượt leo lên. Chiếc xe nặng nề lăn bánh trên con đường mòn qua những bồn cỏ hai bên có cây đu. Rồi sau khi vượt qua cửa cổng nó chạy ra ngoài đường cái.
Bên trong quán “Đầu Heo Rừng” không có ai. Mặt đất chung quanh đầy những rác rưởi của nhiều thế hệ người cắm trại bất cẩn đã để lại. Từ lúc những công nhân đã rời đi, và nhất là từ khi những người đi đường không còn quan tâm đến cái quán rượu cũ kỹ, John và Henry nhận ra rằng chúng là những người duy nhất trên đời quan tâm đến số phận của nó.
Chúng nhìn nhau rồi không nói một câu, bước chân qua cổng, lao người trên con đường mòn và chỉ dừng lại khi đứng giữa gian phòng chính của quán rượu. Sau đó chúng đi đến từng gian phòng và quan sát kỹ lưỡng khắp nơi. Chúng nhận thấy một vách ngăn gỗ đã biến mất và quang cảnh đã thay đổi.
Từ khi những phần thêm đã bị lấy đi rất gần đây cùng những phần trang trí mong manh, những cột đẽo bằng tay đã xuất hiện cũng như lớp vữa đầu tiên. Những gian phòng đã lấy lại vẻ cũ kỹ hơn, trang trọng hơn, nhưng cũng có một không khí đặc biệt hơn trước.
Henry cúi nhặt một vật thật sự “thời thượng”, một mẩu nến may mắn thoát khỏi răng chuột. Nó bỏ vào túi.
John là người đầu tiên cất tiếng :
- Không còn như trước nữa, cậu có nhận thấy như vậy không?
- Có. – Henry đáp.
- Những công nhân đã bốc đi những lớp đá có khoảng năm mươi năm hay một trăm năm trước. Bây giờ mới đúng như lúc Râu Đen còn sống ở đây.
John tách xa bạn và bắt đầu nhìn giữa những cây cột. Henry nhìn bạn và tự hỏi: “Nó tìm cái gì vậy?”, và nói với giọng chế giễu:
- John, làm cách nào mà cậu có vẻ rành nơi này quá vậy?
John là bạn thân nhất của Henry. Thật ra, chúng có thể coi là không bao giờ rời nhau. Nhưng khi John tỏ ra biết một số vấn đề mà cậu không biết, Henry khó giấu được sự bực dọc. Và việc này thường xảy ra khiến cậu không muốn thú nhận sự dốt nát của mình, dù với chính bản thân.
- Cậu nói rằng tớ biết rành à, về cái gì chứ? – John càu nhàu.
- Về ngôi nhà này và về Râu Đen. – Henry đáp trong lúc đến lượt cậu đưa đầu vào giữa hai cây cột.
Rồi cậu nói thêm khi thích thú nghe giọng nói biến đổi giữa những cây cột này:
- Ai bảo với cậu rằng hải tặc Râu Đen đã sống ở đây?
John đáp lại và nhấn mạnh từng từ một:
- Tớ biết điều này từ rất lâu rồi! Và tớ cũng biết ngôi nhà này xưa kia được xây dựng như thế nào khi nghe người ta kháo nhau ở ngoài đường. Cậu không có nghe sao? Nhung điều khiến tớ ngạc nhiên hơn cả mà cậu không biết là chính hải tặc Râu Đen đã xây dựng quán “Đầu Heo Rừng” này!
Herry đành nói dối:
- Có chứ, tớ biết điều này mà. Cậu cho tớ là thứ người gì hả? Một tên ngu dốt phải không?
Cậu nhìn John một lúc. John ngồi xổm xuống, tay bóp nát một mảnh thạch cao.
- Cậu tìm gì thế? – Henry hỏi.
- Một vài vật. – John đáp nhưng không đứng lên. – Giáo sư sử học Allan dạy lịch sử có nói với tớ rằng người ta tìm được rất nhiều vật đáng quan tâm trong những ngôi nhà cổ như ngôi nhà này, khi phá bỏ chúng.
Henry lại đi quan sát nhiều lỗ hổng trong tường.
- Trò đùa! – Henry lẩm bẩm.
Tuy vậy, trong lòng cậu cũng rất xúc động. Cậu không rút đầu ra khỏi hai cây cột, đi dọc tường quỳ gối xuống, luồn qua một cái lỗ hổng mà John vừa bỏ đi, tìm trong đống gỗ mục nát nhưng không tìm được gì cả.
- John, tớ chẳng tìm thấy gì cả! – Cậu bé rên rỉ.
- Tiếp tục tìm đi!
Sau vài giây im lặng, Henry chợt kêu lên:
- Xem này, John!
Cậu ngồi ngay xuống đất, quan sát vật vừa tìm được. Đó là một vật nhỏ màu vàng, đường kính độ bằng một đồng đô la bạc.
- Cậu tìm thấy cái gì vậy? – John hỏi.
- Cái này!
John chạy đến ngồi xuống cạnh bạn:
- Đó là một loại ảnh tượng đeo ở cổ. – Henry vừa nói vừa chìa ra cho John xem.
John đứng lên, chạy đến cửa sổ. Henry theo sau. John mở to mắt vì tò mò hơn là ngạc nhiên.
- Ồ! Ồ! – Cậu bé hồi hộp nói nhỏ. – Cậu tìm thấy nó ở đâu vậy?
Henry cười hãnh diện rồi cố tình che đậy bằng cách uể oải nói: (…) – Cậu có thể nói là cậu gặp may rồi đấy!
- Theo cậu thì là cái gì vậy? Một ảnh tượng đeo ở cổ hả?
- Không! – John lầu bầu. – Đó là một đồng tiền… một đồng tiền cổ.
Cậu bé quay sang bạn, nói tiếp:
- Cậu muốn tớ cho biết ý kiến riêng của tớ không? Tớ có cảm tưởng đó là một đồng tiền vàng Tây Ban Nha cổ. Chúng ta sẽ đi hỏi giáo sư Allan. Chắc chắn ông ta sẽ biết nó là cái gì. Cậu có thấy không, Henry? Đồng tiền này có thể của Râu Đen!
Nói rằng Henry lấy đồng tiền từ tay John là dùng không đúng từ. Vì cậu bé vội giật lấy và nói:
- Đưa tớ xem nào! Có thể còn hàng trăm đồng tiền như thế này ở tại đây.
Cậu bé cho đồng tiền vào trong túi. Nhưng John lại đã lại bắt đầu bò đi lục tìm từ bức tường này sang bức tường khác, từ lỗ hổng này sang lỗ hổng khác để tìm một kho báu.
Henry vội vàng bò theo bạn. Cậu vừa thọc sâu tay xuống dưới lớp bụi của sàn nhà vừa hỏi:
- Cậu có nghĩ rằng sẽ tìm được những đồng tiền khác nữa hay không?
Giọng John đáp lại từ xa:
- Cậu nói gì, tớ không hiểu?
Henry nói lớn hơn:
- Tớ nói là cậu có nghĩ rằng sẽ tìm được những đồng tiền vàng nữa không?
- Có lẽ thế.
Chúng làm việc như những con chuột chũi bị đói. Chúng đào bới, sục sạo làm dấy lên hàng đống bụi dày, khuấy động đống đất đá, xem xét tỉ mỉ từng xó xỉnh, khe rãnh nơi mà mắt con người có thể nhìn thấy được từ hơn hai thế kỷ qua. Chúng cực nhọc len lỏi trong những hầm hố mà những người công nhân phá hủy ngôi nhà đã tạo ra trong khi bốc những lớp trang trí mới thực hiện vài chục năm gần đây. Chúng tự tạo một con đường qua những đống rác rưởi và thường chúng phải xé bỏ những tấm mạng nhện dày như những bức màn thực thụ.
-Nào, nhanh lên đi. – Henry sốt ruột nói, – Cậu không muốn xem những gì tớ đã tìm sao hả?
- Có chứ! – John đáp với vẻ như muốn nói. – Cậu thật là phiền quá đi!
Cậu đi theo sau Henry vào trong hành lang vừa cố làm ra vẻ không thấy quan tâm. Thình lình cậu dừng lại, cúi xuống, mân mê sợi dây giày, mặc dù chúng đã được buộc chặt tử tế. Henry chờ bạn, càng lúc càng sốt ruột. Đứng trên ngưỡng cửa vào phòng chính, cậu nhìn John vẫn đang nghiêng mình tiếp tục buộc dây giày.
- Đến đây… Đến đây đi mà! – Cậu bé giận dỗi nói. – Cậu sẽ lo buộc dây giày sau!
Tuy nhiên John làm như không biết rằng bạn mình càng lúc càng nổi giận, vừa làm bộ thắt nút dây giày, cậu đã có một ảo giác lạ thường. Cậu nhìn thấy Henry đang quỳ gần một trong những chiếc hòm mà những hải tặc cất giấu kho tàng.Chiếc hòm này gần những đồng tiền vàng và làm rơi ra từ những kẽ tay hàng trăm đồng tiền lấp lánh!
Bị ám ảnh bởi ảo giác đó, John đứng thẳng người lên, lòng tràn đầy một nỗi buồn mênh mông. Cậu nhận ra rằng Henry đã thật sự khám phá ra một cái gì đó và e sợ sẽ chứng kiến một điều tệ hại hơn, cậu không dám hỏi vật tìm ra là cái gì. Đầu óc đầy những ý nghĩ không vui lê chân tiến đến.
- Nào, cái cậu tìm thấy là cái gì vậy?
- Một cánh cửa… Cuối cùng, phải, một cánh cửa.
- Nếu như cậu ấy muốn mình sập bẫy, thì lầm rồi!
Đúng lúc đó, giọng nói của Henry vang lên, thành thật và thôi thúc:
- Nhanh lên nào John! Cậu phải nhìn thấy cái này. Thật tuyệt!
Đến lượt John chui vào những mảnh ván. Cậu bé có cảm tưởng trên mình là một mái nhà rất nghiêng. Henry chờ đón cậu với một vẻ chiến thắng:
- Tớ đã nói gì với cậu hả? Không phải là một cánh cửa mà là một lối đi vào. Nhưng tớ không nhìn lầm phải không nào?
John mở to mắt lắp bắp: (…) Hai cậu bé bò đến gần lối đi vào. Quỳ gối cạnh nhau ở bậc cửa, chúng nhìn vào một cầu thang xoắn ốc tối om. Chúng nhìn thấy những bức tường, những nấc thang, một trần nhà nơi những tảng đá trơn và xám phủ một lớp rêu xanh. Chúng cũng nhìn thấy một bức màng nhện te tua phủ xuống từ trần nhà này.
Không khí bụi bậm và ẩm thấp. Những luồng không khí lạnh lẽo nhẹ nhàng bốc lên từ hướng hai cậu bé và có tiếng nước rơi từng giọt.
- Đây chắc chắn là lối đi bí mật của hải tặc Râu Đen, – John thì thầm.
- Chắc chắn là như thế. – Henry đáp và nở một nụ cười tinh quái. – Tớ mong rằng lần sau cậu sẽ tin khi tớ nói với cậu rằng tớ đã tìm ra cái gì đó!
John đứng lên nhưng chỉ lom khom thôi vì sợ đụng vào những tấm ván trên đầu. Và làm như không nghe điều mà bạn cậu vừa nói, cậu nói khi bước xuống bậc thang thứ nhất:
- Tớ tự hỏi con đường này đưa đến đâu?
- Tớ cũng vậy. – Henry lơ đãng đáp.
Rồi khi nhận thấy John đã bắt đầu đi xuống cầu thang cậu cũng đứng lên.
- Cậu muốn đi xuống thật sao?
- Sao lại không chứ? Còn cậu?
- Không bao giờ!
Đến lượt John cười phá lên nói:
- Cậu sẽ không nói rằng cậu sợ chứ?
Henry tỏ vẻ tức giận, phản đối; – Tớ mà sợ à?
- Nếu không sợ thì chúng ta cùng xuống bên dưới. Chúng ta sẽ thấy rõ xem nó có đáng quan tâm không?
Lấy hết can đảm Henry qua mặt John, nhảy bốn bậc thang một đi xuống. Bỗng cậu khựng lại, nhíu mày, khuôn mặt căng thẳng nhìn trong bóng tối. Chợt cậu quay lại, leo bốn bậc thang một và nói:
- Đúng như cậu nghĩ!
- Có chuyện gì vậy Henry? – John hỏi.
- Tối đen như một cái giếng ấy, không thấy gì cả.
- Cậu có mẩu nến, còn tớ có bao diêm.
Henry thành thật tiếc rằng cậu đã tìm ra cái cầu thang chết tiệt. Vì cậu không sợ hãi mà chỉ thận trọng. Cậu không bao giờ thích những nơi phủ đầy bóng tối. Còn về John, cậu rất thích bạn mình và xem như là người bạn thân nhất. Nhưng John luôn luôn đưa đến cho cậu những thử thách. Và cậu chính là chúa trùm về công việc này! Cũng như lần này đây cậu muốn cả hai phải xuống cầu thang tối như chui xuống hang chuột chũi này. Tại sao có loại người hay chõ mũi vào một nơi, không ngừng thử giải quyết mọi vấn đề như thế nhỉ. Henry miễn cưỡng lôi từ túi bên phải ra mẩu nến và đồng thời cậu cũng muốn kiểm tra xem đồng tiền có còn ở trong túi nữa hay không.
- Chắc là không cháy, nó cũ quá rồi. – Cậu nói khi chìa mẩu nến vàng và hết sức mong rằng sẽ đúng như cậu nói.
John chờ đợi, túi diêm trong một tay. Và tay kia cầm một que với ngón trỏ và ngón cái sẵn sàng bật lên.
- Hãy dốc ngược đầu lên cho bấc nằm ở dưới. – Cậu ra lệnh. – Tớ đốt nó đây.
Khi que diêm được đốt, cậu đưa ngọn lửa gần bấc nến. Trước hết một chùm tia lửa bốc lên… rồi sau một thời gian hai trăm năm trong bóng tối và giá lạnh mẩu nến kêu tí tách và bùng lên. Nó không tạo ra một ngọn lửa dịu dàng và rõ như nến hiện đại. Nó bốc khói và phát ra một ánh sáng yếu ớt và hăng hăng mùi lưu huỳnh. Hơn nữa nó chảy và xông đầy mũi bọn trẻ mùi mỡ bị đốt cháy. Cuối cùng nó dội lên trần nhà, chung quanh tường một thứ ánh sáng khi rõ khi mờ chập chờn khóe lên không khí trở nên nặng nề, ấm cúng đáng sợ.
Henry hầu như đờ đẫn vừa nhìn ngọn lửa vừa nghĩ: “Dĩ nhiên, sáng còn hơn không”.
Cậu bé lớn tiếng nhận xét:
- Không tốt lắm phải không?
- Ừ. – John thừa nhận. –Nhưng nó vẫn cháy. Điều cần thiết là vậy.
Henry đưa mu bàn tay lên quẹt mũi, hít một hơi, rồi nhìn cầu thang, ít ra là đến khúc quanh đầu tiên.
- Nếu cậu muốn. – Henry đề nghị. – Tớ sẽ đi lấy đèn pin. Cây nến này không tốt, nó chắc chắn sẽ tắt ngấm thôi.
- Không đâu Henry, nó sẽ không tắt đâu. – John đáp lại. – Nó còn cháy tốt mà!
Sau một lúc im lặng, John nói:
- Cậu nghĩ gì vậy? Rằng tớ có ý định xuống tận dưới đó à? Không đâu, tớ chỉ muốn xuống một vài bậc thang là đủ rồi.
Henry nhíu mày:
- Nghe này, John. Tớ chỉ cần hơn năm phút để đi lấy cây đèn pin. Nó sẽ .chiếu sáng tốt hơn cây nến này, hơn nữa bố tớ cũng mới vừa thay pin – Được. Nhưng cậu không biết rằng, nếu cậu về nhà mẹ cậu sẽ tìm ra một việc gì đó bắt cậu làm. Còn tớ, tớ sẽ phải chờ ở đây à?
John ngừng một chốc và nói thêm:
- Henry, cậu biết đấy, tớ hoàn toàn không muốn đi xuống cầu thang này một mình. Còn nến thì tớ chắc chắn đủ cho cả hai chúng ta.
Ánh mắt của cậu bé có vẻ van lơn khiến Henry nhớ đến đôi mắt của con chó Butch của cậu.
Điều đang chi phối Henry là một phần cậu e rằng nếu cậu trở về nhà sẽ bị mẹ cậu giữ lại, một phần này nặng hơn. Nó có cảm tưởng rằng John cần cậu. Không phải lúc nào cũng có đồng loại cần đến sự giúp đỡ của cậu, hầu như là sự bảo vệ của cậu. Đặc biệt là John có vẻ như không bao giờ cần ai. Do đó Henry tự cảm thấy mình rất quan trọng và vô cùng được vuốt ve.
- Nào, Henry, ta đi thôi! – John lại nói với ánh mắt van lơn.
Hầu như sự hăng hái luôn thắng thế khi nó được sự vuốt ve động viên. Và Henry cuối cùng cũng thực hiện những gì John chờ đợi cậu như mọi khi.
Chiếc cầu thang có vẻ như xuống thấp thẳng đứng trong lòng đất. Henry đi sau John và đi sát vào người bạn. Cậu đặt một tay đặt lên vai bạn và tay kia chống vào những phiến đá lạnh lẽo nhẵn bóng như tìm kiếm điểm tựa. Hai đứa trẻ lặng lẽ xuống từng bậc thang. Những tiếng động bên ngoài, Tiếng xe chạy trong đường bên cạnh xa dần rồi trở nên càng lúc càng yếu đi. Không bao lâu John và Henry chỉ còn nghe những tiếng giọt nước. Dần dần chúng nó có cảm giác bị bao trùm bởi một tấm chăn ướt.
Thình lình Henry hét lên, đập lên ngực, lên gáy, vặn vẹo người, giậm chân. Do không thấy trên tường một mạng nhện đầy bụi bặm cậu đã thọc tay vào. Một con vật đen, có nhiều chân đã chạy trên cườm tay, leo lên cánh tay và chui vào cánh tay ngắn của áo sơ mi.
- Gì vậy Henry? Cậu suýt làm tớ đánh rơi cây nến!
- Một con nhện hay một con vật khác tớ không biết nữa, đã bò dọc cánh tay tớ! Nào John chúng ta hãy bỏ đi!
- Nó đi chưa?
- Rồi, tớ nghĩ là vậy.
- Vậy thì đừng nghĩ đến nó nữa, thế thôi.
- Ồ, không! Tớ sẽ bỏ đi. – Henry nói với giọng hết sức bình tĩnh, lạ lùng không muốn cho...