Hẳn là chúng ta đều thấm nhuần quan điểm mác xít cho rằng: nhận thức chân lý phải là một quá trình, phải từ chân lý tương đối mà đi gần tới chân lý tuyệt đối và cũng chẳng có chân lý tuyệt đối. Hay nói theo thuật ngữ của Pháp: nghiên cứu khoa học là recherche, tức là tìm đi tìm lại, cứ thế mà tìm mãi. Không ai có thể tự cho đây là tiếng nói cuối cùng. Với những ý nghĩ như trên, tôi xin được bàn lại một số vấn đề đã và đang thành vấn đề đối với Phan tiên sinh, con người mà cả dân tộc Việt Nam ta, không một ai không tôn vinh, riêng Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đã suy tôn là \"một bậc anh hùng, một vị thiên sứ, đấng xả thân cứu nước được hai mươi triệu đồng bào sống trong vòng nô lệ tôn kính\"(1).
Về Phan Bội Châu, mấy vấn đề xin được bàn lại
Về Phan Bội Châu, mấy vấn đề xin được bàn lại
I. VẤN ĐỀ “BẠO ĐỘNG ĐỂ CỨU NƯỚC”
Phân tích phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở đầu thế kỷ XX, các nhà sử học mác xít đã chia thành hai khuynh hướng, cũng là hai đường lối: ám xã và minh xã. Ám xã là vũ trang, bạo động mà Phan Bội Châu là người tiêu biểu với việc âm mưu đánh chiếm thành Nghệ (1901), với các phong trào Đông du, Việt Nam Quang phục hội… Ám xã là vận động duy tân, cải cách một cách công khai trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân, từng được mệnh danh là cải lương. Từ đó, nổi lên một cách đánh giá gần như là chính thống, cho rằng bạo động mới là cách mạng, còn cải lương là thoả hiệp. Mặc dù với cải lương thì được phân thành hai trạng thái: cải lương tích cực mà đại diện là Phan Châu Trinh, là phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân nói chung. Cải lương phản động, tay sai của thực dân Pháp mà tiêu biểu là Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu, kể cả Phạm Quỳnh trên phương diện văn hoá mang tính chất chính trị. Nhưng, ngay với đường lối cải lương tích cực, trong buổi đầu xuất hiện đường lối cách mạng vô sản ít nhiều có bệnh tả khuynh thì cũng đã bị phê phán gay gắt. Sự nhận thức và đánh giá các khuynh hướng, đường lối cứu nước ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chịu sự chi phối trực tiếp của quan điểm và đường lối cách mạng vô sản vốn đã lấy việc \"đấu tranh là hạnh phúc\", mà đấu tranh thì coi vũ trang bạo động là phương thức tối thượng, tối ưu, thậm chí như là độc đạo. Nhất là trong bối cảnh nhận thức của gần ba chục năm liên tục có chiến tranh, từ sau ngày cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đường lối cách mạng lấy vũ trang bạo động làm đầu dĩ nhiên là có từ truyền thống dân tộc: \"giặc đến nhà đàn bà cũng đánh\" (tục ngữ), \"sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh\" (Nguyễn Đình Chiểu). Điều đáng nói là quan điểm và đường lối thiên về vũ trang bạo động cũng đã thành hệ quy chiếu trong việc đánh sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu. Người ta đề cao Phan Bội Châu trên Phan Châu Trinh, coi Phan Bội Châu là người tiêu biểu nhất, sáng giá nhất trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX trước khi có Nguyễn Ái Quốc, có Đảng Cộng sản Đông dương, với nhiều căn cứ, nhưng trước hết là căn cứ ở đường lối bạo động của Cụ. Trừ trường hợp chủ tịch Hồ Chí Minh thì đã đặt hai cụ Phan ngang hàng nhau(2). Rồi người ta cũng lên án ở mức này, mức khác, thậm chí có người cho là vết đen trong đời cách mạng của Phan Bội Châu vì đã đưa ra chủ trương Pháp Việt đề huề, tức là từ bỏ con đường cách mạng chỉ vì không bạo động.
Chuyện đã diễn ra trong nửa sau thế kỷ trước là thế. Nhưng gần đây lại có chiều hướng khác. Khác ở chỗ muốn đề cao đường lối cải lương mà phần nào hạ thấp đường lối bạo động. Không kể trong dư luận của một số người, chỉ riêng trên giấy trắng mực đen thì khuynh hướng khác trước này thể hiện là ở hai bài viết của giáo sư Vĩnh Sính (Việt Kiều) và một bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc(3). Hai ông, đều đề cao Phan Chu Trinh. Riêng Nguyên Ngọc thì coi Phan Chu Trinh là người có tư tưởng \"cập nhật kỳ lạ\" của thời đại, mới đáng gọi là nhà cách mạng của đầu thế kỷ XX. Điều đó đáng để mọi người suy nghĩ và trao đổi thêm. Nhưng đáng tiếc là hai vị trong khi đề cao cụ Phan xứ Quảng thì lại đơn giản hóa quá đáng cụ Phan xứ Nghệ. Trong việc đơn giản hóa này, trực tiếp hoặc gián tiếp chắc là có dựa vào chính lời Phan Châu Trinh nói về Phan Bội Châu (Quan hệ giữa hai cụ Phan là một vấn đề lý thú. Mong có dịp sẽ bàn rõ hơn). Quả thật, trong bài \"Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam\" của Phan Châu Trinh viết trong thời gian mới đến nước Pháp (1911) để gửi cho Métximi và Xarô là \"hai tên đầu sỏ thực dân cầm vận mệnh năm xứ Đông dương\" (Chương Thâu), từng viết về Phan Bội Châu lược trích như sau:
\"Phan Bội Châu là người rất có chí khí, có nghị lực, nhẫn nhục, dám làm, có điều tin vào thì không chịu bỏ, dẫu có sấm sét cũng không đổi. Nay sĩ phu khắp nước chưa ai có thể ví với ông ấy. Tiếc thay học thuật không rành, thời thế không rõ, thích dùng quyền thuật, tự dối mình dối người, ngoan cố không đổi. Lớn lời không ai bì, hãm quốc dân vào đất chết, cam chịu tiếng ác mà không biết… Chủ nghĩa phục thù cực đoan mà Phan Bội Châu chủ trương thật là hết sức sai lầm, chỉ hãm quốc dân vào chỗ chết, không hợp thời thế, không sát với lý luận… Bởi vì ông ấy là người đại biểu cho thói quen trên lịch sử ngàn năm của dân tộc nước Nam. Không biết chân tướng của người nước Nam, xem ông ấy thì biết được. Dân nước Nam rất giàu tính bài ngoại, thì bài ngoại của ông ấy đến chỗ cực đoan. Người nước Nam rất thích dựa người ngoài, ông ấy lại ỷ ngoại đến chỗ cực đoan. Dân Nam rất thiếu tính tự lập, ông ấy lại càng hơn nữa. Tính chất, trình độ của ông ấy đều cùng hợp với tính chất, trình độ của quốc dân… Than ôi! không biết cái ngu cái kém mà làm thì cũng có thể thứ cho. Biết cái ngu, cái kém, cái không địch lại mà cứ muốn lợi dụng để thực hành chí mình thì ta không biết ông ấy đã cư xử theo cách nào. Than ôi! Từ nay về sau ta mới biết cái độc ác của bát cổ. Ông ấy chưa hoàn toàn thoát khỏi mặt mũi của bát cổ, không chỉ đủ làm mất nhà, nước người, mà còn hiện hình biến tướng đến giết hết cả giống nòi mà chưa thôi…\"(4).
Qua những gì từng diễn ra với Phan Bội Châu như trên, thấy rõ chuyện đời không hề đơn giản. Mỗi lúc một khác, chuyện bạo động của Phan Bội Châu trước thì được đề cao, nay lại có chiều bị hạ thấp. Cũng như chuyện \"cải lương\" của cụ Phan Châu Trinh, trước bị đánh giá thấp, nay lại có chiều đặt lên cao. Mà như thế thì chuyện đề huề của cụ Phan Bội Châu trước bị phê phán - thì nay không chừng lại được biện hộ. Kể ra thì chuyện biến động, chuyện phức tạp như thế trong nhận thức, cũng là bình thường, nhất là một khi quyền tự do suy nghĩ, quyền dân chủ trong học thuật đang có khả năng trỗi dậy trong thời đại ngày nay. Nói vậy, không có nghĩa là không còn nghĩ đến yêu cầu tiến lên trong khoa học để tìm thêm những kết luận hợp lý hơn. Với yêu cầu như thế, tôi có một số ý kiến như sau:
1. Đã đến lúc phải xoá đi khoảng cách cực đoan giả tạo, phi lịch sử giữa hai đường lối bạo động và cải lương, để rồi lúc thì đề cao bên này, lúc thì đề cao bên kia, và ngược lại. Mặc dù, chuyện thích bên này hơn bên kia là chuyện của cá nhân, chẳng ai có quyền bắt ép ai. Cần nhận rõ, trong thực tế đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX, quan hệ giữa \"ám xã\" và \"minh xã\" là quan hệ vừa khác biệt, vừa thống nhất. Đọc kỹ lại lịch sử, sẽ thấy rõ điều đó.
2. Cần thấy, ở Phan Bội Châu tuy thiên về bạo động nhưng không hề xa lạ, ngược lại còn rất gắn bó với phong trào Duy Tân - Cái tên hội Duy Tân mà Phan Bội Châu cùng Nguyễn Hàm khởi xướng; quan hệ giữa Phan Bội Châu với Đông Kinh nghĩa thục qua việc dịch thuật tác phẩm của Phan như Hải ngoại huyết thư, Việt Nam vong quốc sử để làm tài liệu giáo khoa của nhà trường; quan hệ giữa Phan Bội Châu với nhóm Triêu dương thương quán ở Nghệ An của Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân, Đặng Văn Bá từng được mệnh danh là \"minh xã\"… đủ nói lên mối quan hệ không mảy may chút đối lập, ngược lại là sự \"hợp đồng tác chiến\", là \"hai mũi giáp công\" giữa Phan Bội Châu với các chí sĩ Duy Tân đương thời. Trường hợp quan hệ giữa Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh thì quả là có sự khác biệt rõ rệt, một khi Phan Châu Trinh là người trước sau chống lại con đường bạo động, chống lại chủ trương cầu ngoại (\"bất bạo động, bạo động tắc tử\" - \"bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu\"). Và từ sự bất đồng chính kiến này, thái độ, cách nhìn của Phan Châu Trinh như thế nào về Phan Bội Châu thì những gì được trích dẫn trên đây hẳn là chúng ta đã rõ phần nào. Phải chăng ở đây có sự phiến diện, sự quá lời từ một cá tính sống mãnh liệt, sắc sảo, sòng phẳng nhưng ít nhiều thiếu sự điềm tĩnh trong nhất thời. Rất mong lớp cháu con hậu sinh hôm nay với ý thức tư duy cá thể theo tinh thần của Descartes \"Tôi tư duy ấy là tôi tồn tại\" (Je pense donc je suis) sẽ có thái độ khách quan trước những lời của cụ Phan xứ Quảng nói về cụ Phan xứ Nghệ. Xin hãy xét đến hoàn cảnh phát ngôn của cụ Phan xứ Quảng là gì? Phương pháp tư duy của cụ là gì? Rồi hãy đọc lại những gì cụ Phan xứ Nghệ dành cho cụ Phan xứ Quảng, để thấy cách xử sự của cụ Phan xứ Nghệ với cụ Phan xứ Quảng là gì và con người cũng như cá tính cụ Phan xứ Nghệ như thế nào? Ở đây xin lược trích vài đoạn trong bức thư gửi Phan Châu Trinh (1907):
\"… Hai mươi năm nay, tôi đã bị chìm trong lớp sóng nô lệ trên mặt biển dơ duốc, rồi say sưa với cái thuyết quân thân của bọn hủ nho, nào có biết gì là Mạnh Đức Tư Cưu, là Lư Thoa(5) đâu! Nay nghe huynh ông rán sức đem thuyết dân chủ để cổ động người nước ta… Lời nói vĩ đại làm sao! Tấm lòng tốt đẹp làm sao!... Tuy thế, mặc dù quốc dân ta ngày nay còn đang măng sữa, khác nào còn ở giai đoạn phôi thai. Răng đứa trẻ còn chưa chắc mà đã đút xương bắt nhai, chân đi chưa vững mà lấy roi vọt khua bắt chạy, làm thế nào mà nó không hóc, không què thì thiệt là vô lý! Trình độ quốc dân ta còn kém hẳn người Âu. Mình mẩy đã đui què, tàn tật, lại thêm đói rét lầm than, hằng ngày lo mặc đã không xuể rồi. Muốn kêu to mà thức họ dậy, thì phải chờ cho tới ngày họ chán chường hẳn với chính sách ác bạc và luyến tiếc chế độ ngày xưa, rồi nhân lúc đó cho họ thấy cái hy vọng có thể nhân cơ hội này lập chút công danh, vùn vụt nổi lên như gió thổi, dồn dập vang dậy như sấm vang, cả nước đồng lòng thì may ra mới mong được việc. Bây giờ vội vã đề xướng một học thuyết không đầu, không đuôi, đưa người đến giữa ngã ba, ngã bảy, tiếng đó la lên, rồi đây sẽ được mấy người tán thành?... Dân không còn nữa mà chủ với ai? Khi đó thì dầu huynh ông có bầu máu nóng đi nữa, rồi cũng chẳng biết đem rưới vào đâu nữa đâu! Giờ đây nghe mấy lời tôi nói đó, chắc là huynh ông sẽ mắng ngay rằng: Đồ hèn nhát! Đồ hèn nhát! Nhưng nào tôi có phải là người camlòng làm nô lệ đâu!... Lý luận và thực hành bao giờ cũng phải cân nhắc kỹ lưỡng. Ngày nay là lúc thực hành… Rồi đây, mươi mười năm nữa, huynh ông sẽ đưa cái thuyết đó ra, thì người đầu tiên đứng cạnh huynh ông để mà vỗ tay hoan hô sẽ là tôi đây vậy. Huynh ông nghĩ xem: mặt tôi đây có thể đi làm tôi đòi, làm chó săn đâu!\".
Nước mất, phải tìm đường cứu nước. Nhưng cứu nước bằng đường lối nào? Quả thật là chuyện vô cùng khó khăn. Có cái nhất thời cho là đúng, nhưng với lâu dài là gì? Rõ ràng không đơn giản với những ai có tầm nhìn vĩ mô. Chuyện giữa hai cụ Phan, ai đúng ai sai? Ai hơn ai kém? đâu phải là dễ có kết luận cuối cùng. Xin dành để mọi cá nhân tự kết luận. Nhưng điều này thì nói chắc được, về thái độ, tình cảm cụ Phan xứ Nghệ trước sau vẫn rất quý trọng cụ Phan xứ Quảng. Chỉ cần đọc lại \"Bài văn tế Phan Châu Trinh\" (1926) của Phan Bội Châu với những câu như: \"Anh em ta đất rẽ đôi đường/ Tình chung một khối/ Gánh tồn vong ai cũng nặng nề/ Nghĩa chung thuỷ lòng càng bối rối\" thì thấy rõ cá tính, nhân cách của Cụ. Nhìn nhận Phan Bội Châu mà chỉ thấy trước sau Cụ chỉ biết có bạo động một cách độc đạo, không thấy Cụ nhất thời thiên về bạo động nhưng không hề xa lánh ý tưởng cải cách duy tân, không thấy Cụ trong buổi đầu thử thách mình với đường lối bạo động, sau thấy không thành thì chuyển hướng sang con đường khác, mặc dù bị một loại dư luận, quan điểm nhất thời lên án nhưng xem ra thời gian lại ủng hộ Cụ.
II. PHAN BỘI CHÂU VÀ CÔNG CUỘC ĐÔNG DU
Nếu tôi không lầm thì ở đây đã có một nghịch lý đáng nói. Bởi với phong trào Đông du thì cho đến nay, sử sách hầu như chỉ có tán dương, đề cao, cùng với việc đề cao các phong trào Duy Tân, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào chống thuế, Việt Nam quang phục hội… nhưng với Phan Bội Châu, là lãnh tụ của phong trào Đông du thì lại bị chê trách phê phán, vì đã dựa vào Nhật Bản. Lại không ai khác, chính Phan Châu Trinh là người lên tiếng phê phán đầu tiên cũng trong tác phẩm \"Pháp Việt liên hiệp hậu chi tân Việt Nam\" như sau: \"Ngày nay, có kẻ danh sĩ trong nước, tự phụ yêu nước, chẳng biết đem hết sức ở trong mà đề xướng quốc dân, không có phương châm gì, chạy bậy ra nước ngoài, như sư tử ngủ mê không có sức, tô vẽ non sông để theo kẻ quyền mạnh, nói năng bậy bạ, không để ý tới lợi hại, kịp muốn mời một nước thứ ba miệng Phật lòng rắn, chẳng có đạo người, đem cả tính mệnh mà giao kết cho thì sau mới thấy làm thích\".
Sau này, cũng tiếp tục sự phê phán đó bằng một luận điểm quen thuộc là: \"Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau\". Quả thật, những lời phê phán này đã ảnh hưởng tới nhiều người, hơn nửa thế kỷ qua khi đến với Phan Bội Châu. Trong khi chính Phan Bội Châu, lại coi mấy năm Đông du của mình ở Nhật Bản (1906-1908) là \"thời kỳ đắc ý nhất\" trong cuộc đời cách mạng của mình. Vậy, chúng ta nên hiểu hiện tượng này như thế nào cho thoả đáng? Trước hết phải thấy việc nhận thức về nước Nhật là không đơn giản. Bởi có một nước Nhật vốn cũng nghèo nàn, nhưng nhờ biết duy tân mà trở thành một nước hùng cường. Bởi có một nước Nhật phát xít đã gây tội ác cho Triều Tiên, Trung Hoa và Việt Nam và hôm nay lại có một nước Nhật là một trong mấy đối tác lớn nhất đầu tư vào Việt Nam, giúp đỡ Việt Nam phát triển. Chuyến thăm Nhật Bản của chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết vừa qua chẳng đã đưa lại niềm vui lớn cho người dân Việt Nam ta đó sao. Vậy thì Phan Bội Châu đến Nhật Bản, dựa vào Nhật Bản là dựa vào điều gì? Hẳn là dựa vào kinh nghiệm duy tân - chứ dựa vào gì khác. Phan chẳng đã tự nói: \"Đến như hội duy tân thì là một học hội. Tôi có chiêu tập những hàng thanh niên anh tuấn trong nước ra ngoài cầu học… Một hội như thế, có việc gì là đáng tội đâu!\". Dĩ nhiên đây là lời Phan tự biện hộ trước toà án của kẻ thù nhưng cũng là sự thật. Cứ nhìn vào những gì mà Phan Bội Châu đã làm, đã tranh thủ sự giúp đỡ trên đất Nhật thì đó không phải là đem lại cái lợi cho đất nước sao. Một lớp thanh niên ưu tú của đất nước được Phan đem đi Đông du là gì với phong trào cách mạng đầu thế kỷ XX, nào đã có ai nợ, ai dám phủ nhận. Sao lại có chuyện đề cao Đông du mà chê trách người lãnh tụ Đông du. Thấy Nhật Bản về sau trở thành phát xít đến gây đau khổ cho đất nước ta từ năm 1941 đến 1945 mà cho rằng dựa vào Nhật Bản thời 1906-1908 là \"đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau\" e là một sự quá lo xa, mà một trong những lý do là vô tình hay hữu ý bỏ quên mất hiện tượng năm 1918 trong Pháp Việt đề huề chính kiến thư, Phan Bội Châu đã lên án Nhật Bản một cách gay gắt với những lời lẽ như sau:
\"Nhật Bản kia là một nhà nham hiểm nhất trong thế giới, cũng là một bác nhanh chân trong trường đi săn. Bắt đầu khi liệt cường đua nhau dúng tay cầu lợi ở Trung Hoa thì Nhật Bản đã vớ trước ngay được mấy miếng thịt béo là Đài Loan và Nam mãn, đến bây giờ thì cả vùng Phúc Kiến và Sơn Đông đã hình như ở trong túi người Nhật. Nhưng cái lòng tham lam hăng hái của người Nhật, được thế phỏng đã lấy làm no chán chăng!... Nay tôi lại thử đặt mấy vấn đề này để ngỏ cùng người Nam:
Người Nhật lấy được Việt Nam, người Nam phỏng dám vin cái lẽ là Tổ quốc mà đòi lại ở trong tay ông khách cường ngạnh kia không? Tôi biết rằng không khi nào dám. Nay thử xem Cao Ly, Đài Loan, cái hùng hiểm người Nhật có phần lại gấp trăm nghìn ông bảo hộ hiện tại ngày nay đó. Đó là điều thứ nhất.
Người Nhật lấy được Việt Nam, người Nam phỏng còn dám mong có ngày tự chủ độc lập hay không? Tôi biết rằng không khi nào dám. Nước Pháp xa cách nước Nam, kể có muôn nghìn dặm bể, thế mà năm mươi năm nay, không hề bao giờ thoát khỏi được vòng ràng buộc, huống chi vào tay người Nhật ở kề cửa liền nhà kia, chiến hạm, sư đoàn, sớm đi tối đến, thì do đó bọn người Nam liệu có thể giơ tay cất chân được nữa chăng. Đó là điều thứ hai.
Việt Nam thuộc quyền người Nhật phỏng người Nhật có chịu để chút cơm thừa canh cặn nhường cho người Nam lót dạ hay không? Tôi biết rằng không khi nào có được cái hy vọng ấy. Đất nước Nhật Bản hẹp xấu mà nhân khẩu nhiều, cố liều chết tìm đất thực dân, túi tham vơ vét vẫn chưa đủ, còn đâu thừa thãi bố thí cho ai. Đó là điều thứ ba\"…
Những lời lẽ trên đây về Nhật Bản dù là có phần viết ra để doạ, để ép thực dân Pháp phải thực bụng đề huề, đảm bảo quyền lợi cho đất nước Việt Nam của mình, nhưng không phải là không đúng với sự thật cường bạo của Nhật Bản đang trên đường phát xít hoá, mưu toan \"hùng bá Á châu\". Chuyện là như thế, thì khó nói là \"đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau\". Một nhà cách mạng có văn hoá lớn, có trí tuệ lớn như Phan Bội Châu chả lẽ lại không biết \"tương kế tựu kế\" sao! Phan Bội Châu chẳng đã tuyên bố: \"đối với tôi có một mục đích duy nhất là giành được độc lập dân tộc, còn chủ nghĩa gì cũng chỉ là thủ đoạn\" (Phan Bội Châu niên biểu). Như thế, lúc cần thì dựa vào Nhật. Lúc khác lại có thể chống Nhật,...