là một môn trác tuyệt trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽđứt gãy hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại lắm rồi, nhưng xét cho kỹ thì lại quá ư bá đạo, những đệ tử nhà Phật không nên học môn đó để mà nổi tiếng.
Ðoàn Dự buột miệng cũng nói xen vào:
-Phải rồi! Cái môn đó quả là hiểm độc thái quá.
Tuệ Chân và Tuệ Thiền nghe Huỳnh Mi đả kích sư phụ mình trong lòng đã thấy bất mãn nhưng còn kính nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả lời lại thấy Ðoàn Dự ở bên cũng lẹ miệng hùa theo, bất giác hai người cả giận đều quắc mắt nhìn. Ðoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng lý gì đến nữa.
Ðoàn Chính Thuần hỏi Huỳnh Mi hòa thượng:
-Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Kim cương chữ?
Huỳnh Mi tăng thở dài đáp:
-Vì vừa nghe nói Huyền Từ đại sư bên Thiếu Lâm thấy di thể sư đệ mà đoán biết được hung thủ là nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Nhà này tuyên bố chủ trương của họ là: ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ.
Ðoàn Chính Thuần nghe xong phải lắc đầu, còn Huỳnh Mi hòa thượng thì lẩm bẩm đọc đến hai ba lần câu: "Ai giỏi môn gì thì lấy môn đó để mà hạ thủ" trên nét mặt thoáng những nét sợ sệt.
Bảo Ðịnh Ðế và Ðoàn Chính Thuần quen biết Huỳnh Mi đại sư từ mấy chục năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử Diên Khánh đấu cờ thí mạng, đã trông rõ thế bại rồi, tuy ông có bối rối nhưng nét mặt
vẫn thản nhiên. Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết phái Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.
Im lặng hồi lâu Huỳnh Mi tăng lại từ từ lên tiếng:
-Lão tăng nghe nói Mộ Dung Bác là người giỏi số một trên thế gian. Có lẽ họ lấy tên là Bác để phô cái võ công uyên bác đến cực điểm của họ. Tựa hồ như trong võ lâm, bất luận về môn tuyệt kỹ của một phái nào họ đều thông hiểu. Kể cũng lạ thật, khi họ muốn giết chết ai nhất định lại dùng cái môn tuyệt kỹ đã nổi tiếng của người đó để sát hại.
Ðoàn Dự nói xen vào:
-Vâng! quả là một điều kỳ dị ngoài sức tưởng tượng của con người. Võ công trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà họ học được cả?
Huỳnh Mi đáp:
-Ðoàn công tử nói đúng đó. Việc học rộng như biển cả, ai mà thông suốt hết được bao giờ? Có điều kẻ thù của Mộ Dung Bác cũng chẳng có nhiều. Nếu họ chưa học được hết môn tuyệt kỹ của cừu nhân đến mức có thể dùng để giết đối phương thì họ sẽ không động thủ được.
Bảo Ðịnh Ðế nói:
-Tôi cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có người kỳ dị như thế. Lạc thị tam hùng ở Hà Bắc nổi tiếng về môn phi truỳ rồi sau ba người đó đều chết vì bị trúng phi truỳ.
Rồi Chương Hư đạo nhân ở Sơn Ðông lúc định giết ai ba giờ cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày rồi mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như thế. Lời tuyên bốcủa nhà Mộ Dung từ cửa miệng Chương Hư đạo nhân truyền đi.
Ngừng một lúc Bảo Ðịnh Ðế lại nói tiếp:
-Hồi ấy, ở Tế Nam giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người quây quần chung quanh Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.
Nói tới đó Bảo Ðịnh Ðế phảng phất dường như đang mục kích cái thảm trạng Chương Hư đạo nhân trong lúc lâm tử. Nét mặt nhà Vua đầy vẻ bất mãn.
Ðoàn Chính Thuần gật đầu nói:
-Thế thì đúng rồi.
Chợt nhớ ra một việc Ðoàn Chính Thuần nói tiếp:
-Tôi nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp rất thiện sử cây nhuyễn tiên, lúc giết kẻ địch thường dùng nhuyễn tiên quấn chặt vào cổ đối phương khiến cho địch thủ chết vì nghẹt thở. Phải chăng lúc...
Ðoàn Chính Thuần chưa nói hết câu đã vỗ tay ba cái gọi một tên thị bộc tới bảo:
-Mi đi gọi Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị việc cần.
Tên bộc thị ngập ngừng chưa hiểu Thôi tiên sinh là ai. Ðoàn Dự lại phải nói cho gã biết Thôi tiên sinh tức là Hoắc tiên sinh, người giữ sổ sách chi tiêu trong Vương phủ. Bấy giờ tên bộc thị mới hiểu rõ chạy đi mời. Trong giây phút Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường.
Ðoàn Chính Thuần nói:
-Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!
Quá Ngạn Chi đáp:
-Không dám.
Ðoàn Chính Thuần hỏi:
-Tại sao lệnh sư Kha tiền bối bị họ ám toán và bị tử thương đến trí mạng? vì quyền cước hay vì binh khí?
Quá Ngạn Chi thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được:
-Gia sư bị hại vì một đòn "linh xà chiến đẩu".
Bảo Ðịnh Ðế, Ðoàn Chính Thuần và Ðoàn Dự đưa mắt nhìn nhau trong lòng đều thấy rùng rợn.
Tuệ Chân vội chạy tới trước mặt Thôi Bách Kế và Quá Ngạn Chi chắp tay vái chào nói:
-Anh em bần tăng cùng hai vị đều căm phẫn một kẻ thù chung. Nếu không diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô...
Tuệ Chân nói dở câu thì trong bụng nghĩ thầm: "chưa chắc mình đã diệt nổi nhà Mộ Dung. Nếu không xong thì lại là một điều rất nguy hiểm". Nhà sư nghiến răng nói tiếp:
-Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.
Quá Ngạn Chi hai mắt đẫm lệ đáp:
-Thế ra phái Thiếu Lâm cũng kết mối thâm thù với nhà Mộ Dung rồi ư?
Bấy giờ Tuệ Chân mới đem việc sư phụ Huyền Bi chết về tay Mộ Dung thế nào, thuật qua lại một lượt.
Bảo Ðịnh Ðế thấy Quá Ngạn Chi lộ vẻ sầu bi, căm hờn, nghiến răng thống hận kẻ thù, còn Thôi Bách Kế chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì tựa hồ như không quan tâm gì đến mối thù sư huynh bị sát thân, trong lòng rất lấy làm kỳ dị. Tuệ
Thiền hoà thượng tính vốn thẳng thắn bộp chộp, buột miệng hỏi ngay:
-Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ bọn Mộ Dung ở Cô Tô chăng?
Tuệ Chân vội mắng át:
-Sư đệ! Không được vô lễ.
Kha Bách Tuế qua đời rồi thì Thôi Bách Kế sẽ là chưởng môn phái Tung Sơn.
Phái Tung Sơn ở gần kề ngay phái Thiếu Lâm. Nên nhớ rằng ông thuỷ tổ dựng ra phái Tung Sơn đã dám đến bên cạnh phái Thiếu Lâm, dựng ra một môn phái, nêu cao ngọn cờ võ thuật phi phàm thì đủ biết bản lãnh phái này thế nào. Hơn nữa thầy trò Kha Bách Tuế và Quá Ngạn Chi đều thanh danh lừng lẫy khắp Trung Nguyên, danh vị Thôi Bách Kế trong võ lâm tất nhiên cũng không phải là hèn kém. Nào ngờ Thôi Bách Kế vừa nghe Tuệ Thiền nói đã lơ láo ngó lui, ngó tới tựa hồ sợ trong vách có tai hay kẻ thù ghê gớm rình rập sắp ập vào, tỏ ra con người khiếp nhược.
Tuệ Thiền thấy dáng điệu Thôi Bách Kế như vậy, cho là một kẻ hèn nhát đáng khinh, liền hừ một tiếng và nói lẩm bẩm một mình:
-Ðại trượng phu lúc đáng chết thì chết làm gì phải sợ sệt đến thế?
Lúc đó Tuệ Chân cũng biểu đồng tình về sự khiếp nhược của Thôi Bách Kế nên mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, cũng không ngăn cản nữa.
Huỳnh Mi hòa thượng khẽ đằng hắng rồi nói:
-Việc này...
Huỳnh Mi vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Kế toàn thân run lẩy bẩy, đứng bật lên như cái lò xo, đụng phải chiếc chén nước trên khay trà rơi "binh" xuống đất, vỡ tan ra.
Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói:
-Không xong rồi! Không xong rồi!
Quá Ngạn Chi chau đôi mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ.
Ðoàn Chính Thuần nghĩ bụng: "lão Thôi Bách Kế này không có một chút gan dạ nào hết", rồi quay sang hỏi Huỳnh Mi:
-Việc này sư huynh nghĩ sao? Xin cho nghe nốt!
Huỳnh Mi hấp một hớp nước trà rồi thủng thẳng hỏi:
-Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi?
Thôi Bách Kế vừa nghe ba chữ "Mộ Dung Bác" đã giật mình rú lên một tiếng kinh hãi, rồi hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp:
-Chưa... tôi đã... không... gặp bao giờ.
Tuệ Thiền hỏi lớn:
-Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!
Thôi Bách Kế giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Ðoàn Chính Thuần thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi vốn dĩ bảo trọng danh dự của môn phái, bây giờ thấy sư thúc, người kế vị chưởng môn tỏ vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu.
Ðược một lúc Thôi Bách Kế mới cất giọng run run đáp:
-Chưa... ờ... hình như chưa gặp bao giờ.
Huỳnh Mi nói:
-Lão tăng đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị tham tường cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây rồi.
Lúc đó bần tăng còn ít tuổi sức mạnh, vừa xuất thân đã chiếm được chút thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh chưa biết sợ hổ là gì. Vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư phụ ra không còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa.
Năm đó, tôi hộ tống một ông quan đã mãn nhiệm kỳ tại kinh về quê với cả gia quyến. Khởi hành từ Biện Lương về Sơn Ðông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh báo cương thì gặp bốn tên cường đạo.
Bọn này không cướp tiền của đồ vật mà chỉ định bắt tiểu thư con vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí khái, quyết chẳng dung tình, hạ thủ ngay bằng những đòn hiểm độc. Dùng môn Kim cương chỉ hạ sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón tay đâm thủng vào tận tim, chết không kịp ngáp.
Giữa lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp, hai
người cưỡi lừa đi ngang qua. Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá ư kiêu ngạo, nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị kinh quan: "dù có tám, chín, mười đứa cường đạonữa tới tôi cũng dùng kim cương chỉ giết cho chết hết".
Bỗng một người ngồi trên lưng lừa "hừ" một tiếng, nghe tựa như tiếng đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt, chế diễu. Tôi quay đầu nhìn lại, quả thấy một thiếu phụ rất đẹp, chừng 32, 33 tuổi ngồi trên lưng lừa và một cậu trai nhỏ chừng 12, 13 tuổi, mi thanh mục tú, hình dung tuấn nhã cưỡi trên lưng một con lừa khác.
Hai người đều có trọng tang, mặc toàn đồ trắng. Cậu bé nói: "Má! Hay chi cái trò "Kim cương chỉ" mà gã kia cũng đem ra khoe khoang khoác lác?".
Lai lịch Huỳnh Mi tăng thế nào, ngoài anh em Bảo Ðịnh Ðế ra ít ai biết rõ. Song lúc ở trong hang Vạn Kiếp nhà sư dùng sức Kim Cương chỉ vạch đá làm bàn cờ, ấn lõm đá thành quân cờ, cuộc đấu trí đấu lực với thái tử Diên Khánh rất gay go và hi hữu đó đã trở thành một câu chuyện rất hào hứng trong võ lâm. Mọi người đều đem lòng kính ngưỡng nhà sư và rất khâm phục môn "Kim cương chỉ". Bây giờ nghe hoà thượng thuật lại lời cậu bé, ai cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy. Không ngờ Huỳnh Mi khẽ thở dài rồi nói tiếp:
-Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức giận, song cho là lời ngông càn của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng thèm lý đến nữa.
Nào ngờ thiếu phụ lại chỉ trích thêm: "Môn Kim cương chỉ của người đó là môn chính tông Bồ Ðề Ðạt Ma, về nghệ thuật kể cũng được tới ba thành rồi đấy. Mi là con nít biết gì mà nói? Mi phóng ngón tay chắc chưa được trúng bằng người tađâu".
Bần tăng nghe thiếu phụ nói vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ. Nguồn gốc môn phái bần tăng khách giang hồ ít ai biết rõ. Thế mà thiếu phụ này công nhiên nói toạc ra, lại còn biết bần tăng luyện môn "Kim cương chỉ" mới được có ba thành,
điều này khiến bần tăng không thể nhịn được.
Ôi! kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công lực của bần tăng ngày ấy màbảo đã luyện được tới ba thành là
nói quá lên rồi chứ đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi.
Bần tăng lớn tiếng thách thức: "Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Ðã coi thường "Kim cương chỉ" của tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy đòn chăng?". Cậu bé gò cương lại, vừa toan trả lời, thì thiếu phụ thốt nhiên hai mắt đỏ ngầu, rớm lệ bảo con: "Gia gia mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi chóng quên thế?".
Cậu bé đáp: "Dạ! Khi nào con dám quên?".
Hai con lừa lại tiếp tục cất bước đi về phía trước.
Bần tăng càng nghĩ lại càng bất phục, liền thúc ngựa đuổi theo gọi: "Ô kìa! Trong đám giang hồ có ai lại mở miệng chỉ trích bừa bãi võ công của người khác rồi không ở lại tỷ thí mấy hiệp, cứ bỏ đi ngay mà được bao giờ?". Con tuấn mã của bần tăng đi rất mau, vừa nói dứt lời nó đã vượt lên chắn trước mặt hai người.
Thiếu phụ quay lại bảo con: "Mi coi đó mà coi! Cứ buột miệng nói bừa người ta đâu có chịu ngơ đi?".
Cậu bé này xem chừng đối với mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa.
Bần tăng thấy họ đã sợ mình, nghĩ bụng: "đây là một cặp mẹ goá con côi, mình có thắng họ cũng chẳng vẻ vang gì, hà tất ta phải cố chấp như mọi người khác?
Song nghe lời thiếu phụ thì dường như đứa bé này đã biết môn "Kim cương chỉ".
Về môn này bần tăng phải tốn công phu trong một thời gian 10 năm mới luyện được tới mức đó vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Chắc là nói phóng đại đó thôi".
Bần tăng liền nói đổng một câu: "Hôm nay ta để cho các ngươi đi về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút nghe!". Thiếu phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con: "Thúc thúc đây nói phải đó, về sau con nói năng nên cẩn
thận một chút". Nếu câu chuyện tới đây mà thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó bần tăng đang độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho thiếu phụ đi trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ mình lừa cho cất bước, bần tăng giơ roi quất vào mông lừa của cậu bé và cười vang lên bảo: "Ði mau mau lên nhé". Ðầu roi của bần tăng còn cách mông lừa chừng một thước, bỗng nghe rắc một tiếng, cậu bé quay đầu lại, luồng chỉ lực đã xé không khí vụt tới đánh đứt chiếc roi ngựa của bần tăng ra làm đôi. Một thế đánh làm cho bần tăng hoảng vía ngẩn người ra, biết rằng chỉ lực quá lợi hại, muôn ngàn lần bần tăng không thể kịp được.
Lại nghe thiếu phụ bảo con: "Ðã trót ra tay thì phải làm sao cho kết liễu đi chứ?".
Cậu bé đáp: "Vâng". Cậu nghiêng mình xuống lừa, chẳng nói năng gì, giơ một ngón tay nhằm điểm vào cổ chân bần tăng. Cậu bé nhỏ và thấp, bần tăng lại ngồi trên mình ngựa, ngón tay cậu chỉ chấm tới chân bần tăng, song thế đánh của
cậu bé rất hay, đúng là thủ pháp "Kim cương chỉ".
Bần tăng buông người từ trên mình ngựa xuống, không dám khinh thị cậu chút nào, cũng dùng "Kim cương chỉ" để tiếp chiến. Hai bên giao đấu, càng đánh bần tăng càng thấy sợ sệt vì chỉ pháp của cậu bé tuy chưa thuần thục lắm, ngẫu nhiên cũng có chỗ sai, song chỉ lực đi tới đâu cũng phát ra âm hưởng veo veo.
Bần tăng quả thực không dám tiếp chiến một cách cứng rắn. Ðánh chưa được chín hiệp, thì trước ngực phía bên trái cảm thấy đau nhói, rồi kình lực toàn thân bị mất hết.
Thuật tới đây Huỳnh Mi để lộ bộ ngực gầy gò, chìa cả mấy giẻ xương sườn ra.
Mọi người thoáng nhìn đều sự tái mặt, vì thấy phía bên trái lồng ngực, nhằm đúng vào tâm tạng, có một lỗ thủng sâu tới một tấc. Tuy lỗ thủng đã thành sẹo rồi nhưng vẫn có thể tưởng tượng lúc mới bị đâm thì vết thương đó hệ trọng tới mức nào. Có một điều kỳ dị là vết thương đó đã đâm thủng vào sâu đến tâm tạng mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi tới ngày nay.
Huỳnh Mi tăng lại trỏ vào phía ngực bên phải cho mọi người xem thì thấy da thịt chỗ đó luôn luôn phập phồng. Bấy giờ
họ mới hiểu Huỳnh Mi hòa thượng có tướng khác lạ, tâm tạng lại lệch về bên phải chứ không thiên sang bên trái như người thường, vì thế mà năm đó hòa thượng mới thoát chết.
Huỳnh Mi xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp:
-Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có một.
Cậu bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng tâm tạng mà bần tăng vẫn không chết, vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tínhmạng không thể bảo toàn được nữa nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn: "Thằng giặc con kia! Mi bảo mi biết sử dụng "Kim cương chỉ", hừ hừ Kim cương chỉ của Ðạt Ma hạ viện, có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người?".
Cậu bé nhảy lại trước mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần tăng hoàn toàn không còn khả năng chống cự gì được nữa, chỉ có cách bó tay đợi chết. Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt lấy lưng cậu bé, nhấc lên một cái, nâng bổng cậu bé, đặt lên lưng lừa. Trong lúc mê man, tôi còn nghe văng vẳng tiếng thiếu phụ chỉ trích con: "Họ Mộ Dung đất Cô Tô có đứa trẻ nào tranh hơi như mi đâu? Kim cương chỉ của mi đã không học được tới nơi, tới chốn nên không giết được y, ta sẽ phạt mi trong bảy ngày...".
Nghe đang dở câu thì tôi bị ngất xỉu, không biết gì nữa, chẳng hiểu bà ta phạt con trong bảy ngày như thế nào.
Kim Toán Bàn Thôi Bách Kế hỏi:
-Ðại sư... về sau... về sau có gặp bọn họ nữa không?
Huỳnh Mi đáp:
-Nói ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán nản, vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lãnh đã cao siêu đến thế, dù mình có luyện võ công đến mấy đi nữa, cũng không tài nào kịp họ được.
Sau khi khỏi vết thương, lập tức bần tăng rời khỏi địa giới nước Ðại Tống tìm đến nước Ðại Lý, nương nhờ ở dưới
quyền cai trị của Ðoàn Hoàng gia. Qua được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật.
Trong thời gian tu hành, bần tăng tuy đã thẩm thấu được lẽ sinh tử, không đem sự vinh nhục năm xưa để vào trong tâm nữa song ngẫu nhiên hồi tưởng đến, vẫn thấy ghê người, chẳng khác gì con chim phải tên.
Mọi người nghe nói đều mặc nhiên không nói gì mà lòng khinh bỉ Thôi Bách Kế đã giảm đi một phần. Vì võ công Huỳnh Mi cực kỳ lợi hại mà đối với nhà Mộ Dung còn phải e dè thế thì Thôi Bách Kế có sợ thất thần cũng nên nguyên lượng.
Thôi Bách Kế hình như cũng hiểu tâm tình mọi người bèn nói:
-Huỳnh Mi đại sư là bậc đàn anh trong đám giang hồ còn đem việc dĩ vãng phơi bày ra hết, không dấu giếm mảy may thì Thôi mỗ là hạng người gì mà sợ không dám thổ lộ những điều kém cỏi của mình? Vậy tại hạ cũng xin đem nguyên do
phải trốn vào phủ Trấn Nam Vương tường trình bệ hạ cùng Vương gia. Nơi đây chẳng có ai là người ngoài, tại hạ cũng xin nói hết để các vị suy xét.
Thôi Bách Kế còn lấm lét, nghển cổ trông ra phía ngoài cửa sổ, uống luôn hai chén trà thấm giọng rồi nói tiếp:
-Việc này xảy ra từ mười tám năm trước đây. ở trong thành Vô ô quân, có một tên thổ hào họ Thái là người trọc phú bất nhân, áp chế dân lành. Một người bạn của sư huynh tôi bị y hãm hại, toàn gia đều chết dưới bàn tay tên thổ hào đó.
Quá Ngạn Chi ngắt lời hỏi:
-Sư thúc! Có phải sư thúc nói tên tặc tử Thái khánh Ðồ đó không?
Thôi Bách Kế tiếp:
-Ðúng rồi ! Sư phụ mi mỗi khi nhắc tới tên Thái Khánh Ðồ lại nghiến răng căm hờn, có điều sư phụ mi là người tốt, chỉ biết an thân thủ phận.
Ông có làm cáo tạng lên kêu...