giao các mùa giấy kính, mùa nắp keng… cho lớp đàn em. Bây giờ có lẽ nó đang mơ màng đến mùa phượng vĩ khi bâng khuâng nhớ tới cô bạn học ngồi bên.
Tôi đá vào chân Thục:
- Tao có bảo mày đem châu chấu cào cào qua đổi kẹo đâu. Qua thăm nó chút, mua vài miếng kẹo rồi về.
Vẫn vòng đeo tay, chiếc kẹp tóc, những hộp chì màu và những hộp bi ve, chai nước mắm, lọ xì dầu, những thẩu bánh tai heo, kẹo đậu phộng… bày khêu gợi trong tiệm tạp hóa bên kia đường nhưng bây giờ ngồi trên ghế nhựa thấp cạnh sạp hàng là một thằng nhóc trạc mười tuổi thay chỗ thằng Hợi. Thằng này trông láu lỉnh, có màu da của một củ khoai lang chưa gọt vỏ.
- Thằng Ngọ, em thằng Hợi đó.
Thục bảo tôi và nó cúi xuống kéo tai thằng này:
- Anh mày đầu rồi?
Thằng Ngọ đang hào hứng đổi kẹo lấy các con bọ tết bằng cọng dừa của mấy đứa nhóc trong xóm, bị kéo tai liền ngước mắt la ầm:
- Á… á… anh Thục chơi kỳ nha! Em méc mẹ em à!
- Mày méc đi! – Thục hừ mũi – Rồi tao méc mẹ mày chuyện mày bán kẹo mà không thu tiền, xem ai bị ăn đòn cho biết!
Bị đụng tới chỗ hiểm, thằng Ngọ nói lảng:
- Anh tìm anh Hợi có chuyện gì không? Anh Hợi đi xay bột rồi, lát mới về.
- Đợi nó không? – Thục quay sang tôi.
- Thôi, khỏi. Bây giờ mày dẫn tao đến tiệm sửa đồng hồ của ông Bốn Lai đi!
Lần
này thằng Thục không thắc mắc nữa. Nó làm thinh dẫn tôi đi dù nó chưa thấy tôi đeo đồng hồ bao giờ.Tôi và thằng Thục đứng cạnh tủ kính xem ông Bốn Lai làm việc với những chiếc đồng hồ bằng các dụng cụ tí hon. So với lần tôi gặp ông trước đây, bụng ông vẫn còn bự (từ ngày giã từ nghề săn bắn có thể nó còn bự hơn) nhưng đôi tay ông cử động vô cùng khéo léo, nhẹ nhàng. Khi thấy tụi tôi đứng nhìn, ông Obelix làng Đo Đo cười nói “Tụi con tới xem chú để học lỏm hả?”, mắt vẫn dán vào chiếc đồng hồ ông đang xoay qua xoay lại trên tay.
Không có cây súng săn vắt ngang vai, ông Bốn Lai nom hiều hậu hơn lần tôi nhìn thấy ông trước đây. Tôi không biết ông còn nhớ tôi và thằng Thục là hai đứa có mặt lúc ông và những người thợ săn khác bao vây con Rùa trong một buổi trưa nắng chang chang ở dọc đường lên xóm trên hay không, nhưng trong đầu tôi hiện lên rõ mồn một cảnh ông mím môi ném cây súng kíp xuống dòng sông nước xiết mặc dù tôi chỉ biết điều đó qua lời kể của con Rùa.
Bữa đó, tôi còn rủ thằng Thục lấy xe chạy xuống quán ăn của hai ông “Asterix”
Hai Sắn và “Panoramix” Bảy Thành ở dưới chợ Kế Xuyên. Tôi nói “Xuống đó tao đãi mày ăn tối” nhưng thằng Thục lập tức từ chối. Lý do của nó chính đáng đến mức tôi không thể không nghe:
- Tối nay mẹ em nấu cháo gà đãi anh đó.
***
Chuyến xe đò liên tỉnh mang tôi đi xa dần.
Tôi đi vào phương Nam. Như đã bao lần tôi rời làng. Nhưng lần này có thể là lần cuối tôi nhìn thấy những rặng tre, những cánh đồng quen thuộc chạy lùi trong mắt tôi qua ô cửa. Sau đó có lẽ tôi sẽ đi vào một thế giới hoang vắng và lạnh lẽ nơi không ai còn nhìn thấy tôi nữa.
Lúc nãy, thằng Thục có vẻ ngạc nhiên khi tôi nhét vào tay nó một phong thư trước khi leo lên xe đò, cẩn thận dặn “Em đưa lá thư này cho cô Út Huệ giùm anh”. Đó là lá thư tôi kể lại câu chuyện bí mật mà bà nội con Rùa đã tiết lộ với tôi. Tôi hy vọng cô sẽ tin vào lá thư như cô đã luôn tin tôi.
Tối hôm qua, tôi và con Rùa lại ngồi bên nhau trên phiến đá xanh hai đứa tôi từng ngồi. Phiến đá kỷ niệm đó, mai mốt con Rùa sẽ ngồi một mình. Chắc nó sẽ khóc nhiều lắm khi nhớ tôi!
Tôi nhớ con Rùa đã làm tôi ngạc nhiên như thế nào khi hôm qua tôi vừa ngồi xuống cạnh nó, nó khẽ chạm vai nó vào vai tôi, dịu dàng nói:
- Em cảm ơn anh nha.
- Cảm ơn chuyện gì?
- Chuyện anh đã nói với bà em là anh thương em đó.
Câu nói của con Rùa có xen tiếng cười nhưng tôi vẫn nhận ra là nó đang cảm động.
- Bà em kể lại với em thế hả? – Tôi hỏi lại, bối rối một cách sung sướng.
- Dạ.
Tôi nhún vai:
- Anh đâu có nói vậy.
- Chứ anh nói sao?
Tôi âu yếm nắm lấy tay nó:
- Anh nói anh và em thương nhau.
- Cái anh này! Em thương anh hồi nào!
Con Rùa “xì” một tiếng, nhưng vẫn để yên tay nó trong tay tôi. Thực ra chưa bao giờ con Rùa nói thương
tôi. Từ trước đến giờ nó chỉ nói nó thích tôi. Lần này tôi về, nó cũng chỉ nói nó nhớ tôi nhiều lắm. Chỉ vậy thôi, nhưng tôi hiểu tình cảm con Rùa dành cho tôi sâu sắc và bao la hơn tất cả những lời yêu thương trên đời cộng lại.
Chia tay lần này, con Rùa không buồn nhiều như lần trước. Có lẽ vì nó tin một khi cả nó và tôi đều không ngần ngại thổ lộ chuyện tình cảm với bà nó, chúng tôi đã là của nhau dù hai đứa đang ở cách xa nhau cả ngàn cây số.
Bên cạnh đó, nhờ sự hối lỗi của ông Bốn Lai câu chuyện u ám của chú Ngãi bất ngờ đã tìm được một cái kết có hậu giúp con Rùa yên tâm rằng cuộc đời không chỉ được sơn phết toàn những màu xám xịt.
Ra học cấp hai ngoài thị trấn Hà Lam, con Rùa cũng đã bắt đầu có bạn bè nhiều hơn so với những ngày thui thủi ở làng. Thị trấn đông người hơn, nhộn nhịp hơn, một nữ sinh mười bảy tuổi cũng dễ dàng đánh bạn với các nữ sinh mười ba, mười bốn tuổi hơn là một nữ sinh mười bốn tuổi kết bạn với tụi nhóc lên chín, lên mười như những ngày học lớp năm trên làng.
Rốt cuộc chỉ có tôi, người yêu thương nó nhất, lại là người sẽ đem đến nỗi buồn cho nó như một món quà tặng mà nó không hề mong đợi. Ý nghĩ đó hiện ra trong đầu tôi ngay vào lúc tôi định liều ôm hôn nó lần cuối đã kịp níu giữ cánh tay tôi vào phút chót. Để làm gì, nụ hôn đó, nếu không muốn khắc sâu thêm nỗi đau lên trái tim con Rùa trong cái ngày nó nhận ra tôi đã bỏ nó để ra đi mãi mãi?
Tôi đứng lên khỏi phiến đá khi sương khuya bắt đầu giăng lên tóc tôi những sợi tơ lành lạnh và quay đầu nhìn một vòng như để thu vào hồn tất cả những gì liên quan đến người con gái tôi yêu. Trăng thượng tuần đi vào những ngày cuối vẫn còn nấn ná trên bầu trời để dát một thứ ánh sáng xanh non lên cây bướm bạc, bụi huỳnh anh và những ngọn rau muống phía cuối vườn.
Trăng đêm nay đẹp quá, nhưng buồn.
Con ngỗng trắng nhướn cổ nhìn theo tôi lúc con Rùa tiễn tôi ra hàng rào giậu. Bây giờ thi tao đúng là kẻ trộm, Cổ Dài à! Tao sắp đánh cắp niềm vui của cô chủ mày, sao lần nay mày không rượt theo tao?
Hình ảnh đó, lời tự nhủ muộn phiền đó đến bây giờ vẫn chập chờn trong đầu tôi theo nhịp xe lắc lư khiến trái tim tôi không ngừng va đập vào thành xe, đau buốt.
Chương 3:
“Ngôi sao may mắn
Một ngày rồi thôi
Về nhìn nước chảy
Nghe sông vắng người”
***
Từ ngày vào lại Sài Gòn, tôi phát mệt vì con nhỏ Bích Lan.
Ngoài thời gian đến lớp và đi chơi với bạn trai, lúc nào nó cũng lẽo đẽo bám theo tôi. Tôi không thể giãy nó khỏi tôi được nên rốt cuộc tôi mặc cho nó làm cái đuôi của tôi.
Hai đứa tôi thường ngồi quán cà phê vào buổi chiều lúc Bích Lan đi học ra. Đó cũng là cách tôi tránh mặt mẹ tôi. Tôi gần như không thể chịu đựng nổi mỗi khi nhìn vào mặt bà. Tất nhiên mẹ tôi luôn động viên tôi, bà luôn nói với tôi về khả năng mầu nhiệm của y học, về vận may của con người nhưng bao giờ mẹ tôi cũng nói những lời phấn khởi đó bằng cái giọng khiến người nghe buộc phải hiểu ngược lại.
Những lúc đó tôi phải ôm choàng lấy mẹ tôi và cố nói những lời bông đùa để không phải nhìn vào vẻ mặt xót xa của bà nhưng sau những lần như vậy vai áo của tôi thường ướt đẫm. Về sau này tôi chọn cách đi ra khỏi nhà bất cứ lúc nào có thể được. Tôi làm như vậy không phải vì tôi mà vì mẹ tôi. Khi không nhìn thấy tôi, đầu óc bà sẽ được trám đầy bằng những thứ khác, nhờ vậy bà sẽ lãng đi căn bệnh của tôi cho đến khi tôi trở về nhà vào bữa ăn tối.
Ngồi với Bích Lan tôi cũng chẳng thấy hứng thú gì. Trước đây thấy nó nói năng ngổ ngáo tôi cứ nghĩ nó là con nhỏ vô tâm hời hợt nhưng bây giờ tôi phát hiện ra nó là đứa sầu muộn và cả lo hơn tôi tưởng. Trong khi tôi đang cần một đứa ăn nói bông phèng bạt mạng ngồi cạnh để thấy đời như là mơ thì nó cứ đeo bộ mặt dàu dàu và giương đôi mắt đỏ hoe ra nhìn tôi làm tôi nhận ra càng ngày nó càng giống mẹ tôi và điều đó khiến tôi ngán ngẩm kinh khủng.
Anh chàng người yêu của nó lúc này đang chúi mặt vào tập để chuẩn bị cho cuộc thi tuyển lớn nhất của đời mình nên nó càng dư dả thì giờ để làm khổ tôi.
Nhiều lúc tôi muốn kể cho nó nghe về con Rùa nhưng tôi cố kềm ý định đó lại vì e rằng nó sẽ chẳng dùng thứ gì khác ngoài nước mắt để tắm ướt cõi lòng tôi thêm lần nữa.
Sau lần truyền máu thứ hai, tôi không còn đốt thì giờ trong các quán cà phê vì không muốn Bích Lan tiếp tục quan sát tôi rồi âm thầm dịch nỗi buồn trên mặt tôi ra một thứ ngôn ngữ bi lụy được xây dựng trên tâm trạng của những kẻ sắp chầu trời.
Nó không biết nỗi buồn của tôi có màu xanh của lá duối dại, lá me chua đất, có tiếng máy bay rì rầm giữa chiều hè oi ả, có sự dịu êm của cái tựa đầu đầy gửi gắm giữa hương cỏ tháng năm và ngày mai chắc chắn sẽ có thêm những giọt sương âu sầu nhỏ xuống từ rèm mi dài của một người con gái mà ngay từ bây giờ tôi đã có thể mường tượng ra.
Tôi có sợ chết đâu. Tôi chỉ sợ cái chết của tôi sẽ đem lại nỗi đau cho những người tôi yêu thương nhất và yêu thương tôi nhất.
Những khi ngồi một mình, tôi nhận thấy tôi có lỗi với mẹ tôi thật nhiều. Tôi chưa làm được gì để đỡ đần cho mẹ tôi. Đã thế, gần đây tôi lại nghĩ quá nhiều đến người con gái tôi yêu. Tôi muốn nghĩ đến mẹ tôi nhiều hơn trong những ngày này, nhưng dường như khi tình yêu chạm đến một người con trai con gái nào, tụi nó cũng đều bất hiếu giống như tôi nếu như có thể gọi cái chuyện một đứa con suốt ngày nghĩ đến người yêu thay vì nghĩ đến ba mẹ mình là đồ bất hiếu.
Và con Rùa, đứa con gái đang choán hết tâm trí tôi đó, tôi cũng thấy có lỗi với cả nó. Tôi chỉ thoảng qua đời nó như ngọn gió mùa hè vội vã trong khi tôi lại làm cho nó tin rằng tôi sẽ đi cùng với nó cho đến tận những mùa trăng cuối cùng.
Chỉ có một ý nghĩ duy nhất an ủi tôi, rằng nếu xa tôi vì tôi không còn trên đời nữa con Rùa chắc sẽ không khổ tâm bằng việc tôi còn sống sờ sờ ra đó nhưng chỉ đểlàm anh họ nó.
Ý nghĩ đó giúp tôi yên lòng được một chút khi tôi thấp thỏm đi đến bệnh viện để thực hiện ca ghép tủy theo lịch hẹn, sự hộ tống của mẹ tôi và hai mẹ con Bích Lan, những người đang cố làm ra vẻ tươi tỉnh một cách khổ sở đến mức người vui vẻ nhất trong ngày hôm đó lại chính là tôi.
***
Đến nơi tôi mới biết tôi chưa phải ghép tủy ngay.
Hôm đó tôi chỉ bị lấy máu để xét nghiệm lần cuối theo đề nghị của các bác sĩ rồi ra về, một tuần sau mới phải quay lại.
Quay lại cũng chỉ để hóa trị, một thời gian sau mới tiến hành phẫu thuật ghép tủy nhưng có vẻ như mọi người bị ám ảnh rằng tôi chỉ còn sống có bảy ngày nữa nên không khí trong nhà thời gian đó thật là buồn thảm.
Mẹ tôi và mẹ Bích Lan cứ nấu hết món ngon lành này đến món bổ béo khác ép tôi ăn.
- Ăn đi con! Ăn để có sức khỏe mà chữa bệnh.
- Ờ, con phải ăn nhiều vào mới được! Trông con gầy quá!
Tôi có cảm giác tôi trở lại thời sáu, bảy tuổi, lúc mà việc ăn ngủ của tôi bị thúc ép và kiểm soát chặt chẽ. Đúng là tôi có gầy đi vì nhiều lý do, cả thể xác lẫn tinh thần. Lần về làng vừa rồi, ai cũng bảo tôi dạo này trông xanh xao và để đáp trả lại những tia nhìn ái ngại, tôi giải thích là do tôi phải học quá nhiều, rằng sinh viên đại học ai
cũng phải thường xuyên thức khuya để ôn tập và làm bài.
Tôi lèn chặt bao tử bất cứ thứ gì bày trên bàn trong tuần lễ đó, chỉ để cho hai bà mẹ vui lòng, chẳng thấy ngon miệng mảy may.
Lưỡi tôi chỉ thực sự có cảm giác vào cái ngày sau khi hội chẩn các bác sĩ bất ngờ tuyên bố tôi không bị ung thư máu. Tôi chỉ bị thiếu máu dinh dưỡng do các hồng cầu bị phá hủy. Sau khi đặt cho tôi hàng lô câu hỏi, họ phát hiện lần xét nghiệm
trước trùng hợp với thời kỳ tôi đang mắc chứng bướu cổ, và đó là nguyên nhân làm gia tăng lượng bạch cầu trong máu, một dấu hiệu rất dễ nhầm với bệnh ung thư.
Hôm đó, suýt một chút nữa mẹ tôi đã ngất xỉu lần thứ tư trong đời khi nghe tôi báo tin vui. Sở dĩ bà không ngã lăn ra như mọi lần là vì bà cố trấn tĩnh để dò mắt lên tờ bệnh án tôi vừa đưa bà nhưng dĩ nhiên là mẹ tôi chẳng đọc được gì trong đó, một phần do chữ viết của các bác sĩ bao giờ cũng giống như một thứ mật mã, phần khác do mẹ tôi không thể nhìn thấy gì khi tim đập binh binh, mắt mờ lệ, các ý nghĩ thì chạy loạn cả lên không thể nào thu thập được.
Con nhỏ Bích Lan thì vừa cười vừa khóc, tay không ngừng đấm vào lưng tôi những cú theo tôi là không nhẹ chút nào. Nhưng dù nó có đấm mạnh hơn nữa thì tôi cũng không có cảm giác gì ngoài cảm giác hân hoan của kẻ nhìn quanh thấy đời bỗng nhiên toàn một màu hồng.
Những ngày sau đó là quãng thời gian thật khó diễn tả được thành lời. Cuộc sống của tôi cứ ngây ngây như thế trong không khí có mùi mật ong, mùi rượu gạo và thỉnh thoảng có cả mùi cá ngừ nếu hôm nào mẹ tôi nấu món bún mà tôi ưa thích.
Ngoài món bún cá ngừ, tôi cảm thấy ngon miệng với gần như tất cả những món khác, kể cả những món trước đây tôi không bao giờ đụng đũa vào.
Tâm trạng không chỉ quyết định khẩu vị mà còn ảnh hưởng tới nhiều thứ. Tôi trở lại là con người cởi mở, cười đùa nhiều lần trong một ngày và hát hò nhiều ngày trong một tuần.
Con nhỏ Bích Lan sau khi cởi bỏ chiếc mặt nạ thảm sầu cũng kịp hóa thành con nhỏ láu lỉnh từng tò tò đi theo tôi đòi hôn khiến có một dạo thấy bóng nó ngoài ngõ là tôi lật đật trốn chui trốn nhủi.
Trong khi bay trên đôi cánh của hạnh phúc, tôi dĩ nhiên không quên nghĩ tới con Rùa. Đã năm tháng trôi qua kể từ ngày tôi chia tay nó, bây giờ chắc nó đã lớn thêm được một chút.
Nó hẹn tôi mùa thả diều sang năm về chơi với nó nhân ngày nó tròn mười tám tuổi. Thấy tôi phân vân, nó hẹn thế thôi chứ tôi biết nó vẫn mong sớm gặp lại tôi.
Tôi cũng không thể đợi lâu đến thế để gặp nó. Lần gặp nhau mới nhất, tôi đã làm nó buồn nhiều quá. Tôi đã đi biệt suốt ba năm, ngày trở về lại không thể trải hết lòng mình với nó.
Tôi biết con Rùa không trách cứ gì tôi nhưng ba đêm liền nó lẻn xuống nhà thím Lê leo lên cây me ngồi nhìn vô cho thấy nó nhớ tôi biết bao và tội lỗi tôi gây ra cho nó nếu không ngập đầu thì cũng ngập tới ngang lỗ mũi.
Mười bảy tuổi, đã là một nữ sinh học trường thị trấn nhưng mỗi khi quay về làng con Rùa lại trở lại là cô bé hồn nhiên ngày nào, thích leo trèo chạy nhảy, thích tung tăng trong rừng xanh chơi đùa với cây cỏ chim muông. Con Rùa đi vào trái tim tôi những ngày đầu tiên chính là bằng hình ảnh ngộ nghĩnh và đáng yêu này.
Mẹ tôi không hiểu được tại sao tôi nằng nặc đòi về quê nhưng bà không ngăn cản, chỉ nói: “Về chơi ít thôi, rồi vô lo chữa bệnh và đăng ký đi học lại. Thiếu máu dinh dưỡng không phải là bệnh xoàng đâu con”.
Tôi “dạ”, nhét cuốn Tâm hồn cao thượng và vài cuốn truyện tranh vào ba lô rồi hớn hở chạy ra bến xe.
Tôi dặn lòng lần này về tôi sẽ bù đắp cho con Rùa. Tôi tặng sách cho nó đọc, lên xóm trên chơi với nó mỗi ngày và khi nào không có ai tôi sẽ cầm tay nó mà không đợi nó phải nhắc.
Lần này tôi sẽ nói với nó là tôi thương nó nhiều lắm, thương ơi là thương, sở dĩ lần vừa rồi tôi không dám bộc lộ tình cảm một cách tự nhiên vì tôi tưởng tôi sắp chết đó thôi. Tôi sẽ kể cho nó nghe chuyện các bác sĩ đã chẩn bệnh nhầm như thế nào và tôi đã không dám về làng ra sao. Ở chỗ này, tôi có nói dối con Rùa một chút. Tôi chưa tiện đề cập lý do thật sự khiến tôi ở lì trong Sài Gòn suốt ba năm trời. Nhưng chuyện gốc gác của nó, sau này thế nào tôi cũng sẽ nói cho nó biết.
Tôi cũng sẽ nói với nó trong quãng thời gian đằng đẵng đó, tôi vẫn thường xuyên gặp nó trong những giấc mơ. Tôi thấy tôi với nó ngồi dưới bóng cây bướm bạc và trong khi tựa đầu vào vai tôi nó hay chỉ tay lên chòm sao Hiệp Sĩ trên đầu để kể với tôi về ông ngoại nó bằng giọng ngân nga như hát.
Tôi sẽ nói với nó đã không ít lần tôi thấy tôi và nó chui vào thác nước để chơi với các con thú nhỏ bên kia đồi. Trong khi nó ngồi với con nai con chỗ vạt thủy trúc um tùm, tôi đi dọc khe nước hái các nhành hoa cúc ngũ sắc để kết thành một chiếc vòng đem về tặng cho nó ướm lên mái tóc.
Rồi tôi nói với nó tôi sẽ không bao giờ xa nó lâu như lần trước. Ờ, không bao giờ có chuyện như thế nữa. Sắp tới tôi không chỉ về thăm nó vào dịp nó tròn mười tám tuổi mà trước đó tôi sẽ về chắc là rất nhiều lần. Hễ có cơ hội là tôi về. Trước giọng điệu hăng hái của tôi, con Rùa chắc sẽ ngạc nhiên lắm. Và không đợi nó hỏi, tôi sẽ nói luôn: tôi muốn gặp nó hoài hoài bởi vì cứ mỗi một ngày qua đi tôi lại nhận ra nó quan trọng đối với tôi biết bao. Rằng không biết từ bao giờ, chắc là từ lâu lắm, tôi cảm giác nếu không có nó bên cạnh, cuộc sống của tôi sẽ vô cùng trống vắng và buồn tẻ.
Trên chuyến xe từ Sài Gòn về quê, những ý nghĩ đó cứ lặp đi lặp lại trong đầu tôi một cách phấn khích như một cuộn băng nghe hoài không biết chán.
Sự nôn nao hạnh phúc đó khiến tôi mỉm cười một mình trong nhiều giờ liền bất chấp cái nhìn dò hỏi của những người ngồi trên các băng ghế bên cạnh.
Và dĩ nhiên khi mỗi tế bào, mỗi nơ ron thần kinh trong tôi bị sự hưng phấn đánh thức để tham gia vào cuộc liên hoan do trí tưởng tượng thiết kế cho buổi hội ngộ sắp tới, tôi đã không ngủ một phút nào cho tới khi xe thả tôi xuống dọc đường quốc lộ.
***
Từ chợ Kế Xuyên về làng Đo Đo chỉ mười cây số, tôi đã qua lại trên con đường này nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi thấy nó xa đến thế mặc dù tôi đi gần như chạy.
Hôm tôi về con đường đất mấp mô lầy lội vì làng Đo Đo đang vào mùa mưa. Trời vẫn nắng sáng lúc tôi đi nhưng trận mưa hôm trước khiến mặt đất có những vũng nước đọng rải rác và ở các gò đất hai bên đường lũ nấm mối đang hớn hở thi nhau giương những chiếc ô tròn màu trắng xám.
Tiếng chim khúc khích trong các bụi cây ven đường như thể đang chọc ghẹo những bước chân hối hả chốc chốc lại suýt té vì vấp vào những mô đất của tôi.
Con đường sắt nằm im lìm khi không có đoàn tàu chạy qua, nhưng dĩ nhiên tôi không có tâm trí nào nán lại chờ tiếng còi tàu như thói quen.
Cho dù tôi biết đến tối tôi mới có thể gặp được con Rùa khi nó từ thị trấn trở về nhưng tôi vẫn vội vã rảo bước. Con chim xanh hạnh phúc tưởng đã bay đi...