chìm cách đây tới cả hai trăm năm? – Cliff Kelland hỏi. – Mới vừa đây trên báo còn nói về ông ta.
Basil Proctor cười khúc khích.
- Té ra mi biết tin cũng nhanh đấy. Đúng thế. Con tàu đó có tên là Cornwall Love, quả thật đã chìm xuống cách đây gần hai trăm năm. Thuyền trưởng Barell là người Ấn Độ. Ông ta đã tìm thấy một kho báu có giá trị không ai ngờ tới. Một kho báu của quỷ sứ gồm rất nhiều vàng và vô vàn đá hiếm. Đó là những thứ mà tiền ngày hôm nay không mua được. Nhưng ta sẽ nhận được nó.
- Chúng tôi dính dáng gì đến chuyện này? – Linda Grey kêu lên.
Gã đàn ông tàn phế nhăn răng ra cười một cách tởm lợm.
- Thuyền trưởng Barell đã đặt một điều kiện, nói cho chính xác hơn thì ông ta bắt buộc phải đặt điều kiện.
- Điều kiện nào? – Adam Preston bình tĩnh hỏi.
- Từ từ đã, chàng trai trẻ. Rồi bọn mi sẽ được biết chính xác mọi chi tiết. Kho báu mà thuyền trưởng Barell mang về đây là kho báu bị nguyền rủa. Con thuyền của ông đã bị nhấn chìm. Đúng ở đây, ngay trước bãi biển này. Ta tình cờ biết chuyện và đã tìm cách lặn tìm kho báu đó. Chỉ tiếc là ta hoàn toàn không biết đến lời nguyền
rủa đối với cá linh hồn. Chính lời nguyền đã biến ta thành một kẻ tàn phế, và kho báu bây giờ vẫn còn nằm dưới đáy biển. Nhưng có một khả năng đưa kho báu đó lên bờ, đồng thời hóa giải lời nguyền: Đó là phải gom góp cho đủ một đội thủy thủ mới. Khi thuyền chìm, Barell và thủy thủ của ông ta đã chết, nhưng linh hồn của họ bị Maharadscha nắm giữ. Từ hai trăm năm nay, những hồn ma đó canh giữ kho báu cho vị thần dữ tợn. Đến nay, chưa một ai có thể với tay được vào chỗ có vàng. Xác chết của những kẻ thử làm điều đó bây giờ đang mục ruỗng dưới biển. Chỉ riêng ta đã ký được một hợp đồng với thuyền trưởng Barell. Nếu thỏa mãn được tất cả những điều kiện của ông ta, thì sẽ nhận được ngoại hình ngày trước cùng kho báu đó. Giờ thì đã hiểu tại sao ta không thể để bọn mi bỏ về rồi chứ? Lũ mi chính là một phần của đoàn thủy thủ mới!
Bối rối, Adam Preston lắc đầu.
- Tôi không thể tin được. – Rồi anh lẩm bẩm. – Không thể có chuyện đó. Ông đang lừa dối chúng tôi, đang giễu cợt chúng tôi, ông già kia.
Basil Proctor cười lớn lên, giơ hai bàn tay gầy guộc xoa vào nhau.
- Ta biết, chuyện rất khó tin. Bản thân ta thời gian đầu cũng không thể quen nổi với chuyện thân hình mình lại thay đổi chỉ trong vòng có một đêm và trở thành một kẻ tàn phế như thế này. Mi có biết cuộc đời của mộ kẻ tàn phế là như thế nào không? không đâu, không một ai có thể tưởng tượng được, không một ai có thể hiểu được cảnh chết dần chết mòn đó. Chẳng một ai giúp đỡ và ta chỉ có thể tin cậy vào cái ghế lăn khốn nạn này.
Basil Proctor đập bàn tay xuống ghế.
- Nhưng mọi việc sẽ khác đi! Ta muốn quay trở lại với ngoại hình ngày xưa, dù có phải dùng đến bất kỳ phương tiện nào.
- Hóa ra ông…ông hy sinh tính mạng của những kẻ khác để lấy lại hình dạng của con người ông? – Linda Grey thì thào, giọng ngập trong nước mắt. – Ông đã làm bao nhiêu con người vô tội trở thành bất hạnh rồi, ông Proctor?
- Cô sẽ gặp họ ngay bây giờ. Ta đã cho xây dựng cả một khu nhà riêng cho đội thủy thủ mới. Cho tới khi lên tàu, cả đám các anh chị sẽ ở đó. Nhưng đừng sợ, không phải chờ lâu nữa đâu. Chỉ thêm một chuyến hàng nữa là đủ số.
Suốt thời gian qua, Adam Preston im lặng. Anh dồn toàn bộ sự tập trung vào gã Ả Rập và thầm vạch một kế họach táo bạo. Anh tin vào những lời giải thích của tay triệu phú kia và có thể tưởng tượng được rằng, Basil Proctor sẽ quyết tâm đạt đến mục đích của gã bằng mọi cách.
Nhưng không thể làm trò đó với anh, Adam Preston mím môi tự nghĩ.
Gã Ả Rập đứng bên trái chiếc ghế lăn. Nòng súng của gã không chỉ vào một người nào cụ thể mà chỉ hướng vào phòng. Đó là điểm tựa cho kế hoạch mà Adam Preston thầmvạch ra. Anh bước một bước về phía trước. Không có phản ứng. Tay người Ả Rập chẳng chuyển động.
Adam Preston thấy tim mình đập nhanh lên. Trong khi Basil Proctor vẫn tiếp tục miêu tả kế hoạch của hắn và thu hút sự chú ý của những người còn lại, Adam Preston lẹ làng bước tiếp.
- Ali! – Giọng ra lệnh như ngọn roi quất ngang căn phòng trần trụi. Lệnh của Basil Proctor.
Ali giật người một cái, nòng súng máy chĩa thẳng vào Adam.
Nỗi sợ xuyên dọc người anh như một tia chớp. Gã đàn ông kia chỉ cần kéo nón tay thôi là mọi việc kết thúc. Nhưng người đàn ông nặng nhọc thở. Đó là những âm thanh duy nhất vang lên trong bầu tĩnh lặng nặng nề. Thế rồi Basil Proctor lên tiếng.
- Đừng giết nó, Ali! Nó gặp may là được ta cần tới. Nhưng cho nó một bài học, để nó biết kháng lệnh ta thì hậu quả sẽ ra sao.
Ali gật đầu. Hình như tên Ả Rập này bị câm. Với một cử chỉ hầu như có vẻ điềm đạm, gã đàn ông hạ khẩu súng xuống đất, dựng đứng ngả vào tường. Rồi gã từ từ quay người lại, vừa quay người, vừa ra đòn.
Không đời nào Adam Preston nghĩ rằng ngọn đòn đó sẽ trúng được anh. Bởi suy cho cùng, khoảng cách giữa hai người dài quá hai mét. Nhưng Ali là một con quỷ. Có vẻ như thân hình gã trong chớp mắt đã dài ra gấp đôi. Gã người Ả Rập cho Adam Preston biết hiệu chứng của một quá trình luyện Karaté suốt mười mấy năm trời Ali giáng trúng miệng Adam. Môi người đàn ông há ra. Sức mạnh của ngọn đòn đẩy anh bay qua căn phòng. Thân hình anh đập rất mạnh vào khoảng tường trần trụi. Loáng thoáng trong tiềm thức, anh nghe tiếng thét kinh hãi của hai người đàn bà trong nhóm. Ngọn đòn nhanh như chớp và cứng như thép thiếu chút nữa khiến anh gục hẳn lìa đời.
Khi gã Ả Rập cúi xuống bên thân người nằm trên mặt đất thì Proctor ra lệnh ngưng hành động.
- Đủ rồi! – Cái hình người trong ghế lăn bỗng sủa lớn.
Ali dừng tay, xoay người, giơ tay cầm súng máy lên.
Cảm giác đau dịu xuống từng chút một. Adam Preston đưa tay lên chùi máu trên miệng, rên rỉ nhỏm dần lên.
- Lẽ ra mi không nên làm như vậy. – Proctor nói. Đoạn gã quay về phía những người còn lại đe dọa trắng trợn. – Giờ thì bọn mi đã biết, điều gì sẽ xảy ra nếu bọn mi gây khó dễ cho công việc của ta.
Bốn người kinh sợ lặng im.
Ba, bốn giây đồng hồ liền, căn phòng chìm xuống với câm nín chết chóc. Trong không gian đó, tiếng loảng như vang lên gấp bội.
Marry Kelland là người đầu tiên phát hiện ra người chết. Nửa phía trên cơ thể anh trôi trên mặt đất. Tiếng gót giày kéo lệt xệt trên nền bê tông. Chen vào đó là tiếng bước đi, tiếng rung của những đoạn xích sắt và những giọng người.
Basil Porctor quay ghế lăn lại. Gã đột ngột cười phá lên và nói.
- A ha, bạn bè ta tới rồi kìa. Họ muốn chào đón bọn mi.
Một lời tuyên bố kỳ quặc, bởi chẳng một ai nhìn thấy bạn bè của gã đâu cả.
Vậy mà rõ ràng chúng hiện hữu…
Linda Grey là người đầu tiên sợ quá hóa điên.
- Tôi không chịu được nữa! – Người đàn bà gào lớn, da nhợt ra như giấy trắng rồi ngoẹo đầu xuống. Chồng Linda chỉ kịp tóm lấy cô ta trong giây phút cuối.
Marry Kelland đứng đó, không nói lên lời, toàn thân run rẩy. Cả ba người còn lại cũng không hiểu trò gì đang diễn ra ở đây. Như đã bị thôi miên, họ nhìn trân trối vào xác chết người đàn ông tóc vàng đang bị những bàn tay vô hình kéo vào phòng.
Lại có tiếng xích sắt vang lên. Thế rồi một giọng khàn khàn ra lệnh:
- Thả nó ra!
Xác chết rơi xuống đất.
Basil Proctor chỉ xuống người đã chết.
- Ai thế?
Giọng khàn trả lời.
- Bọn ta tóm được nó trên bãi cát. Nó kháng cự. Bọn ta phải giết nó.
- Các anh có biết nó không?
- Không. Giọng kia đáp lại.
- Khám xét! – Proctor ra lệnh cho tê Ả Rập.
Ali cúi xuống. Một bàn tay hắn sờ dọc thân thể người chết. Gã lôi ra một khẩu súng lục và một chiếc máy điện đàm.
Mặt Basil Proctor trắng bệch ra. Những đường nét tởm lợm của gương mặt nhăn lại thành một vệt mặt ma quỷ.
- Máy điện đàm!- Gã rít lên. – Một thằng gián điệp. Thằng đàn ông này là một tên gián điệp!
- Nhưng nó chết rồi. – Giọng ma đáp. Những giọng đàn ông khác cười hưởng ứng.
- Thì đã sao? Chắc nó đã báo tin về đâu đó và thông báo truyện gì xảy ra trên đảo này. Xem lại đi, Ali, xem nó có mang giấy tờ gì không.
Tên Ả Rập vâng lời. Nhưng gã không tìm thấy gì cả, không tìm thấybất kỳ một mẩu giấy nào giúp Proctor nhận dạng người đã chết.
Tên triệu phú buộc miệng chửi rủa. Gã vung vẩy hai cánh tay vì giận giữ, nhưng rồi đột ngột nhớ ra và kêu lên:
- Bọn chúng nó đây! – Chỉ cần một chuyến hàng nữa là đội quân của các anh sẽ thừa kẻ thế mạng.
- Bọn ta thấy rồi! – Lại có tiếng chân người vang lên, đến gần năm con người bây giờ đang đờ ra vì quá khiếp sợ.
Đột ngột, Marry Lelland thét lớn. Ngườii đàn bà cảm thấy có những ngón tay sờ nắn cơ thể cô. Chúng vuốt dọc bờ vai, rồi vuốt xuống hông.
- Một phụ nữ tốt. Nó sẽ khiến cho bọn ta vui thú!
- Không! – Kelland kinh hoảng gào lên, chạy vào góc tận cùng của căn phòng.
- Tóm lấy nó! – Giọng ma gào to hơn.
Cliff Kelland không bình tĩnh được nữa. Anh chạy về phía vợ, muốn đứng che cho chị, nhưng trước khi anh tới nơi thì những kẻ vô hình đã ra tay. Những quả đấm giáng tới, đẩy lùi anh trở lại. Đồng thời những ngọn đòn rào rào đổ xuống thân hình người đàn ông trong khi Basil Proctor há mồm cười sặc sụa như một kẻ hóa điên.
Cliff Kelland lảo đảo, bị đẩy sang bên này rồi bên khác. Một bàn tay vô hình tóm lấy tóc anh, kéo giật đầu anh về phía sau. Cliff rên lên biểu lộ đau đớn cùng cục.
Mặc dù không nhìn thấy, anh vẫn cảm nhận rất rõ ràng mũi dao găm đang gí vào cổ anh. Một giọt máu nhỏ xíu chảy ra khỏi làn da, rồi từ từ lăn dọc theo cần cổ.
- Như vậy là đủ rồi. – Kẻ vô hình nói. – Nếu mi dám kháng cự bọn ta một lần nữa, bọn ta sẽ cắt cổ mi!
Một tiếng cười khàn khàn nổi lên, Cliff Kelland bị xô ngã xuống dưới đất.
Vợ anh khom người ngồi trong góc phòng, nức nở thảm thương.
Tiếng bước chân rút đi.
- Bọn ta đợi chuyến hàng cuối. – Tên cầm đầu bọn ma cướp biển tuyên bố. Trong vài giây đồng hồ, khoảng không gian trong phòng lóe sáng và nhóm tù nhân nhìn thấy hình ảnh một bọn người Trung Cổ thoáng hiện ra. Những khuôn mặt hung dữ râu ria xồm xoàm, một gã đàn ông có đeo băng bịt mắt màu đen, và tất cả bọn người đó được trang bị vũ khí tới tận răng.
Cuối cùng bóng ma biến đi. Basil Proctor vỗ hai tay vào nhau.
- Bạn bè của ta đó. Bọn mi còn giám ngi ngờ không?
Không có câu trả lời. Nhóm người trước mặt gã im lặng. Nỗi kinh hoàng đã giơ móng vuốt chạm vào họ, chụp lấy họ như làn hơi bệnh dịch thoát ra từ địa ngục. Cả năm con người hiểu ra rằng họ không còn cơ hội để né tránh số phận khủng khiếp. Người đàn ông tóc vàng có lẽ đã tìm cách phát hiện bí mật hòn đảo này.
Nhưng anh chẳng thành công… Anh chịu trả giá đắt!
Basil Proctor quay sang tên cận vệ.
- Đưa chúng nó sang chỗ bọn kia, Ali! – Gã ra lệnh. – Chúng nó còn phải chờ hai mươi tư tiếng đồng hồ nữa. Sau đó chúng nó sẽ được đưa lên con tàu ma. Còn tao thì sẽ được nhận lại ngoại hình cũ và kho báu khổng lồ của Quỷ!
Proctor quay cái ghế lăn, trượt như một bóng đen vào màn tối hành lang.
Ali dồn các nạn nhân lại. Lần lượt từng con người bị ép rời phòng. Họ lê chân bước tới, đầu cúi thấp. Ý chí phản kháng của họ đã bị bẽ gãy. Một cơn ác mộng trở thành hiện thực.
Đoạn đường London – Plymouth dài khoảng ba trăm năm mươi kýlômét. John Singlair muốn tới đích trước khi trời đổ tối. Chàng thợ săn ma đi với tốc độ cao nhưng vẫn cần nhiều thời gian hơn định trước vì trên đường quá đông xe.
Khoảng sáu giờ chiều, John cũng đến được thành phố cảng. Đây không phải là lần đầu tiên tới Plymouth nên anh có quen đường chút đỉnh. Joh n biết áng chừng ngôi nhà tên triệu phú ở khoảng nào: Phía đông Plymouth, trong một dãy rừng bên kia thành phố.
Ngôi nhà rất khó tìm. John phải hỏi hai lần mới biết đường.
Theo một con phố hẹp trải nhựa đường uốn lượn như con rắn, chàng thanh tra đi tiếp cho tới khi gặp một ngã rẽ, một chiếc biển rất nhỏ chỉ hướng tới ngôi nhà.
John lái xe theo biển chỉ đường, rồi cuối cùng phải dừng lại trước một thanh barie chắn ngang. Một tấm biển giao thông cùng một tấm biển nhỏ cho anh biết, người ta cấm anh đi qua khuôn viên. Tấm biển còn ghi rõ: ai vi phạm sẽ bị trừng phạt.
John xuống xe. Anh đang đứng giữ một dải rừng hỗn hợp tương đối thưa, không gian mát và đầy bóng râm. Những tán lá lọc bớt nắng của mặt trời tháng bảy đã gần xuống núi. Tiếng chim ríu rít. Có con thỏ thoáng hiện rồi nhảy bằng những bước rất dài vào bụi rầm gần đó.
John Singlair khóa chiếc Bentley, rồi lấy đà nhảy qua thanh barie sơn đỏ trắng.
Một con đường trải sỏi dẫn thẳng qua cách rừng. Sau khoảng chừng nửa dặm, cánh rừng thưa ra và John thấy mình đứng giữa một công viên rộng lớn với những thân cây rất già và rất cao, cùng một thảm cỏ được chăm sóc cẩn thận. Con đường trải sỏi cắt thảm cỏ xanh ngắt thành hai nửa và dẫn thẳng vào tòa biệt thự. Anh quan sát kỹ ngôi biệt thự được xây theo phong thái kiến trúc thờ Victoria, trông như một lũy thành kiên cố.
Những bức tường rất giày, đồ sộ. Một thềm bằng đá thật rộng. Rất nhiều góc tường, đường viền và những khung cửa sổ rất cao, những miếng kính đang lấp lóa anh mặt trời. Không hề có dấu hiệu của một sự xuống cấp, mặc dù ông chủ nhà không sống ở đây nữa. Nhưng cũng không hề có một dấu hiệu của sự sống. Ngôi nhà khổng lồ gây ấn tượng trống rỗng, nhưng chàng thợ săn ma muốn tự mình xem lại cho chắc chắn.
Anh đi về hướng những bậc thềm được xây hai đầu bằng một cặp tường rất cao.
- Kìa ông! – John nghe một giọng nói vang lên từ phía lưng anh. Ông không biết là người lạ không được phép vào đây hả?
John đã đứng sát bậc thềm dưới cùng, anh xoay người lại.
Từ tong bóng tối của một bụi cây xùm xòa, có một người đàn ông đang tiến về phía anh. Một người làm vườn mẫu mực như vừa bước xuống từ một đoạn phim quảnh cáo. Ông ta đeo một chiếc yếm rất dài màu xanh, mặc một chiếc áo sơ mi kẻ ca rô và một chiếc quần nhung màu nâu. Khuôn mặt như được làm bằng những nếp nhăn, làn da rám nắng. Bên dưới vành mũ ló ra những lọn tóc đã bạc trắng. Bàn tay phải người đàn ông cầm một cái bình tưới cây.
John mỉm cười:
- Có lẽ ông là người làm vườn ở đây? – Anh tự tin hỏi.
Người đàn ông nhăn mặt khiến những nếp nhăn càng nổ bùng về số lượng.
- Thông minh quá đi! – Ông ta diễu cợt. – Nhưng bây giờ thì tìm cách biến khỏi đây ngay, nếu không sẽ gặp phiền toái đấy!
John lờ đi như không nghe thấy giọng nói hiếu chiến của người làm vườn.
- Ông chủ ngôi nhà này không có ở đây, đúng không?
- Không, anh cũng thấy đấy.
- Ông là người duy nhất đang canh chừng ngôi nhà sao? – Chàng thợ săn ma hỏi.
Ông thợ làm vườn lấy hơi thất sâu đáp.
- Tôi không biết chuyện này thì có kiên quan gì đến anh. Nhưng bây giờ anh biến đi hay là tôi thả chó cho chúng xé xác?
Giờ thì cả John Singlair cũng đâm bực bội. Thôi được, anh không phải là bạn bè của ngôi nhà này, nhưng anh cũng không muốn để người ta đối xử với anh như đối xử với mộ kẻ lang thang trộm cắp.
- Cảnh sát! – Chánh thanh tra nói và rút chứng minh thư ra.
Ông thợ làm vườn ngay lập tức tỏ ra bình tĩnh hơn. Bàn tay trai của ông ta cầm thẻ, đọc thật kỹ. Thế rồi ông ta trao thẻ lại cho John và trở nên thân thiện hơn.
- Xin lỗi ông, nhưng tôi không…
John phẩy tay.
- Bỏ đi. – Anh chỉ bằng ngón tay trái qua bờ vai. – Ông là người duy nhất ở đây hả?
Người thợ làm vườn chần chừ chưa trả lời ngay. John Singlair hiểu ông ta đang tìm cách né tránh.
- Ông Proctor không ở đây. – Cuối cùng người thợ làm vườn nói.
- Cái đó thì tôi biết. Tôi…
John dừng lại giữa câu, bởi giọng nói thô bạo của một người đàn ông khác bất ngờ chen tới.
- Ông nhặt đâu ra cái thằng đó, Jos? Nó muốn gây khó dễ hả?
John Singlair quay lại.
Từ phía Tây của ngôi nhà, một người đàn ông đang bước về phía anh. Gã mặc một bộ quần áo bằng da, loại dành cho phi công, tay cầm một khẩu súng. Nòng súng chỉ xuống đất, nhưng John đánh giá kẻ mới xuất hiện thuộc dạng người sẵng sàng chĩa vũ khí vào đồng loại mà không áy náy lương tâm.
Chàng thợ săn ma cảm nhận một sự co thắt khó chịu trong dạ dày mình.
Gã đàn ông dừng lại, đứng cách John ba bước chân. Gã có một mái tóc đen, cắt tương đối ngắn, một cái mũi ghồ ghề của dân đánh quyền Anh, hai con mắt thâm hiểm nằm rất gần nhau. Cằm gã có một vết sẹo màu đỏ như một minh chứng cho sự bất lương.
- Thế nào? – Thằng đàn ông hất mặt. – Mày làm cái gì ở đây?
- Rick, ông này là…
Tên phi công khó chịu quay đầu lại.
- Ông ra ngoài kia, Jos! Đi làm việc của ông đi! Chần chừ là biết tay tôi đấy!
Ông già làm vườn nhún vai, ngoan ngoãn mỉm cười rồi cất bước.
John Singlair giơ tay rút thuốc lá. Ngay lập tức nòng súng của kẻ đứng đối diện giật lên cao. Chàng thợ săn ma ngạc nhiên nhướng lông mày.
- Ông có lối nói chuyện thân thiện đấy, tôi phải công nhận là như vậy.
- Mày muốn gì?
John khoan thai rút một điếu thuốc ra khỏi bao, châm lửa. Rồi thong thả và thích thú hít một hơi thật sâu.
- Thật ra tôi muốn nói chuyện với ông Proctor.
- Ông ta không có ở đây.
- Thế thì chắc chắn ông là đối tác thích hợp.
- Tao không ti như thế. – Tên phi công mà hầu như không chuyển động môi. – Tốt nhất là mày biến ngay đi. Và đừng có quay trở lại. Nếu không sẽ gặp phiền toái đấy.
- Hay là ông gặp phiền toá? – John hỏi.
Tên đàn ông cười lạnh lùng.
- Mày đe dọa tao hả?
- Còn ông muốn bắn chết một cảnh sát viên phải không?
Tên phi công nhăn trán.
- Tại sao lại là cảnh sát viên?
- Scotland Yard! – Lần thứ hai trong vòng chỉ năm phút đồng hồ, John phải chìa chứng minh thư của mình ra. Anh thấy tên phi công thoáng giật mình khi nghe thấy chữ cảnh sát.
- Thì đã sao? – Gã hỏi vẻ khiêu khích. – Anh muốn gì ở tôi? – Tuy nhiên gã cũng chúc mũi súng xuống.
- Tôi muốn gặp ông Proctor!
- Ông ấy không có nhà!
John mỉm cười.
- Thế thì dẫn tôi tới gặp ông ấy, ông…mà tên ông là gì nhỉ?
- Rick Terry!
- Tốt, ông Terry. Ông sẽ dẫn tôi đến gặp ông Proctor.
Rick Tery lắc đầu.
- Tôi không làm được.
- Tại sao?
- Bởi bản thân tôi không biết ông Proctor đang ở đâu.
John lấy hơi thật sâu, rồi anh nói:
- Tôi vốn là người không ưa chiến tranh. Nhưng tôi không chịu nổi một điều, đó là dối trá. Mà rõ ràng là anh đang nói...