chiếc, hẳn tôi phải chở một người. Chở ai đây?
Tôi làm bộ đần độn:
- Bốn người mà có ba chiếc xe, làm sao đi cho đủ?
- Sao anh ngây thơ quá vậy? Thì chị Kim chạy một chiếc, chị Trâm một chiếc, còn một chiếc anh chở em!
Trời ơi, cái câu tôi thấy khó nói ác liệt vậy mà Quỳnh nói nghe dễ ợt, nghe cứ tự nhiên như không! Mai mốt gặp Quỳnh những câu kho khó như vậy, chắc tôi phải nhờ Quỳnh nói giùm tôi.
Tưởng là mọi chuyện thuận buồm xuôi
gió, ai dè sáng chủ nhật tôi vừa dắt xe ra, Lan Anh lại nằng nặc đòi đi theo. Nó đi theo cũng chẵng chết ai, càng thêm vui, ngặt vì nó cứ ra rả cái “điệp khúc”:
- Anh Chương chở em đi với nghen!
Khiến tôi tức lộn ruột. Anh Chương chở em đi thì lấy ai chở chị Quỳnh hở em?
Tôi than thầm một câu thống thiết. Tuy nhiên ngoài mặt tôi vẫn làm bộ tỉnh, thậm chí tôi còn nhe răng cười ruồi một cái.
Chị Kim nhìn tôi:
- Chương cho nó đi theo cho vui.
Tôi đang phân vân chưa biết tính sao, Trâm đã nhanh chóng phân công:
- Tôi chở con Quỳnh, anh Chương chở nhỏ Lan Anh, bà Kim già rồi được quyền chạy một mình!
Tôi chưa kịp hó hé, nó đã hô:
- Thôi khởi hành! Trễ giờ rồi!
Thế là mọi người lục tục lên yên. Quỳnh ngồi sau lưng Trâm, quay sang tôi cười một cái, không biết là có phải để chia buồn cùng tôi! Tôi cười hết muốn nổi nhưng để đáp lại, tôi ráng nhe răng, cười như khỉ. Còn Trâm thì phớt tỉnh, nó khuýnh tay, dân bàn đạp, dẫn đầu. Chị Kim đi giữa, sau cùng là tôi.
Lan Anh nhẹ tênh mà tôi cảm giác như chở một hòn núi. Đầu óc trống rỗng, tôi chạy tà tà chẳng chút hào hứng.
Tới Ngã Bảy, thình lình Trâm ngừng xe lại.
Chị Kim trờ tới hỏi:
- Gì vậy?
Trâm tặc lưỡi:
- Con Quỳnh nặng quá, qua anh Chương chở đi! Tôi chở nhỏ Lan Anh, khỏe hơn!
Vừa nói, Trâm vừa nháy mắt với tôi. Tôi đỏ mặt ngó lơ chỗ khác.
Tới lúc đó, tôi mới biết Trâm là một đứa rất dễ thương. Hóa ra nó đã biết tình cảm của tôi từ lâu. Khi nãy nó cố tình phân công trái “nguyện vọng” của tôi chắc là để chọc tôi “cho vui”, nói theo kiểu của nó.
Quỳnh nặng gần gấp đôi Lan Anh mà sao từ khi Quỳnh qua ngồi sau lưng tôi, chiếc xe bỗng nhẹ hẫng, lúc nào cũng như muốn bay tuốt lên mây.
Tôi không biết Nhà Bè nằm ở đâu. Hồi nhỏ nghe câu hát:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về!
Tôi đã khoái Nhà Bè. Bây giờ có Quỳnh ngồi sau lưng, tôi càng khoái Nhà Bè gấp bội.
Tôi đoán chừng Nhà Bè ở xa lắm. Xe ra tới ngoại ô rồi mà chị Kim bảo còn đi nữa. Cứ xa nữa đi, Nhà Bè ơi! Xa tha hồ, xa mặc sức, để tôi có thể chở Quỳnh đi đến cuối đất cùng trời!
Nhưng dường như Quỳnh không tin vào khả năng đi dến “cuối đất cùng trời” của tôi cho lắm, cô bé ngồi phía sau cứ hỏi cầm chừng:
- Anh Chương mệt chưa?
Tôi vừa thở hổn hển vừa đáp:
- Chưa.
Vạt áo đẫm mồ hôi sau lưng tôi hình như đang nói điều ngược lại. Cho nên Quỳnh lại lên tiếng:
- Khi nào anh mệt thì ngừng lại, em qua ngồi xe chị Kim.
Tôi khăng khăng:
- Anh đã bảo chưa mệt mà!
Nói xong, tôi cong lưng nhấn mạnh bàn đạp. Chiếc xe chạy vù vù. Tôi phải chứng minh cho Quỳnh thấy lời nói của tôi lúc nào cũng đi đôi với việc làm.
Đột nhiên, Quỳnh đập khẽ vào lưng tôi:
- Anh ngừng lại đi!
Tôi bặm môi đạp riết, miệng gầm gừ:
- Anh đã bảo là anh chưa mệt kia mà!
Quỳnh lại giật áo tôi:
- Không phải! Anh ngừng lại em nói cái này cho nghe!
Tôi thắng xe cái “rét” và quay đầu lại:
- Có chuyện gì vậy?
- Anh quanh xe lại chỗ khi nãy đi!
Bỏ mặc chị Kim và Trâm đi tà tà phía trước, tôi quay xe chở Quỳnh đi ngược lại hướng cũ.
Đi dược một đoạn, Quỳnh lại bảo:
- Ngừng lại đi!
Tôi ngừng xe lại.
Quỳnh hỏi:
- Anh thấy gì không?
Tôi dòm dáo dác:
- Thấy gì đâu?
Quỳnh chỉ tay vào khu vườn bên kia đường:
- Cây sứ kia kìa!
Tôi nheo mắt dòm cây sứ, giọng khi dể:
- Thì cây sứ chứ sao! Ngoài quê anh thiếu gì!
Quỳnh dậm chân:
- Nhưng mà anh có thấy chùm hoa trên kia không?
Tới đây, tôi bắt đầu hiểu ra:
- Em muốn anh hái xuống cho em chứ gì?
Quỳnh cười.
Tôi áp tay lên ngực, thở một hơi dài:
- Hái hoa thì nói đại là hái hoa ngay từ đầu! Em làm anh hồi hộp muốn đứng tim!
Quỳnh dẩu môi:
- Em kêu anh ngừng lại, ai bảo anh cong lưng chạy thục mạng chi!
Giao xe cho Quỳnh giữ, tôi nhanh nhẹn băng qua đường.
Cây sứ nằm trong một khu vườn rộng bao quanh một căn nhà cửa đóng im lìm. Chắc là chủ nhân đi vắng. Hai cánh cổng được khóa bằng dây xích. Rào quanh khu vườn là một hàng duối xanh um.
Tôi loay hoay một hồi mới vẹt được một lỗ hổng, lồm cồm chui vào. Nhà này không nuôi chó. Nếu có, chúng đã xé xác tôi tự đời nào.
Tới gốc sứ, tôi cặm cụi trèo lên. Chùm hoa mọc tít trên cao. Cành sứ dòn, dễ gãy, tôi đặt chân một cách thận trọng. Trèo không khéo té lộn đầu xuống đất như chơi.
Trèo được nửa chừng, tôi dòm sang bên kia đường, thấy Quỳnh đang ngó sang. Cô bé vỗ tay động viên tôi. Tôi càng khoái chí trèo nhanh như sóc.
Bẻ được chùm hoa, tôi hí hửng ngậm ngang miệng. Nhưng tôi chưa kịp tụt xuống bỗng nghe tiếng xe máy nổ ầm ầm trước cổng. Tôi điếng hồn khi nhận ra đó là một cặp vợ chồng đứng tuổi, chắc là chủ nhân căn nhà.
Người vợ bước lại mở cổng, người chồng dắt xe vào, không ai nhìn thấy tôi đang đeo toòng teo trên cây.
Đinh ninh thoát nạn, chờ hai vợ chồng vừa qua khỏi, tôi vội vã tụt xuống đất.
Nào ngờ nghe tiếng sột soạt, người vợ quay lại. Nhác thấy tôi, bà ta hốt hoảng la lên:
- Ối trời ơi! Ăn trộm!
Người chồng nhanh chóng bật chống xe đánh “tách” một cái và nhảy bổ lại phía tôi:
- Đứng lại! Đứng lại!
Tôi đứng chôn chân tại chỗ, mặt xanh lè. Không hiểu sao ngay lúc đó tôi chẳng có ý định chạy trốn.
Người chồng bóp chặt vai tôi:
- Cậu là ai? Cậu ăn trộm gì đây?
Nếu lúc đó, tôi cố tình vùng ra, tôi đã vùng ra được và chạy thoát. Nhưng còn kẹt Quỳnh ở ngoài. Vả lại, tôi không muốn mang tiếng là ăn trộm. Do đó, tôi cố thanh minh:
- Cháu không phải là ăn trộm.
- Chứ cậu vào đây làm gì?
Tôi ngượng ngịu chỉ chùm hoa sứ rơi dưới đất:
- Chái hái cái này.
Nét mặt người chồng dãn ra, trông có vẻ nhẹ nhõm hơn khi nãy. Tuy nhiên, ông ta vẫn bình luận một câu độc địa:
- Vậy cũng có khác gì ăn trộm!
Tôi đỏ bừng mặt vì xấu hổ.
Người vợ chỉ tay ra đường:
- Cậu đi với cô bé kia phải không?
Tôi ngó ra. Quỳnh đã dẫn xe qua bên này đường tự lúc nào. Cô bé đang đứng sát cổng, tôi thút thít:
Tôi gật đầu:
- Em cháu đó! Nó kêu cháu hái chùm hoa này cho nó!
Người vợ hất đầu:
- Thôi, cậu đi đi!
Tôi cúi xuống nhặt chùm hoa sứ đưa cho bà ta:
- Cháu trả!
Người vợ mỉm cười:
- Tặng cậu đó! Nhưng lần sau nhớ không được chui vào vườn người ta khi chủ nhân đi vắng nghe chưa!
Tôi cầm chùm hoa lầm lũi đi ra.
Quỳnh vẫn còn khóc. Cô bé ngước nhìn tôi bằng đôi mắt ướt:
- Người ta không làm gì anh chứ?
- Không làm gì hết! Người ta chỉ mắng anh thôi!
Vừa nói, tôi vừa đưa chùm hoa cho Quỳnh.
- Em hết thích chùm hoa này rồi!
Tôi trố mắt:
- Sao kỳ vậy?
Quỳnh sụt sịt:
- Tại nó mà anh bị mắng!
Tôi mỉm cười:
- Ăn nhằm gì chuyện đó! Hồi nhỏ anh bị…
Đang nói, tôi tốp lại kịp. Chút xíu nữa là tôi khoe hết thành tích bất hảo với Quỳnh.
Cắm chùm hoa lên giỏ xe đằng trước, tôi chở Quỳnh phóng hết tốc lực. Giờ này chắc Trâm và chị Kim đã đi xa lắm rồi.
Chạy được một lát, tôi đã thấy hau người đứng đợi bên đường.
Thấy tôi xuất hiện, chị Kim hỏi:
- Chương bị pan xe hả?
Tôi lắc đầu chưa kịp trả lời đã nghe tiếng Quỳnh thút thít sau lưng. Cô bé khóc dai dễ sợ.
Trâm ngó Quỳnh:
- Làm gì khóc vậy? Anh Chương ăn hiếp mày phải không?
Quỳnh tấm tức:
- Chút xíu nữa là người ta bắt mất anh Chương!
Trâm liếc tôi:
- Sao vậy? Bộ anh đi ăn trộm hả?
Nó nói chơi mà trúng phóc. Tôi đành phải sượng sùng kể lại câu chuyện khi nãy.
Lan Anh cười hích hích, nó dọa tôi:
- Em về méc mẹ anh Chương đi ăn trộm bị người ta bắt!
Tôi nháy mắt với nó:
- Tại chị Quỳnh chứ bộ!
Chị Kim bảo:
- Con Quỳnh là chúa xúi bậy! Mai mốt Chương đừng thèm nghe lời nó!
Trâm quay sang Quỳnh:
- Thôi, đừng lè nhè nữa! Người ta dễ chứ gặp tao, tao nhốt anh Chương, bắt rửa chén đúng một tuần mới thả!
Xuống tới nhà dì Tư, mắt Quỳnh vẫn còn đỏ. Cho đến khi tôi trèo lên cây mận sau nhà (lại trèo cây!) hái từng chùm trái đỏ au, chín mọng liệng xuống cho Quỳnh chụp, lúc đó gương mặt cô bé mới bắt đầu tươi lên.
Chap 11:
Trong số một ngàn hai trăm thí sinh đi thi bữa trước, rớt mất một ngàn. Tôi may mắn nằm trong số hai trăm người còn lại.
Hôm tôi về báo kết quả, dì tôi mừng lắm. Dì nói:
- Để dì đánh điện báo cho mẹ cháu biết!
Tôi can:
- Khoan đã, dì! Còn phải thi vấn đáp nữa! Qua được vòng này mới tính là đậu.
Nói vậy chứ trong lòng tôi rất hy vọng. Dù sao chen chúc giữa hai trăm người cũng dễ thở hơn chen chúc với cả ngàn người..
Tôi vui, Lan Anh cũng vui lây. Cả Trâm, Quỳnh cũng vậy.
Để giúp tôi “yên tâm” học bài chuẩn bị vượt qua kỳ thi quyết định, Lan Anh tỏ ra “phục vụ” tôi một cách sốt sắng. Suốt ngày tôi ngồi học một chỗ và sai nó chạy lòng vòng. Thuốc lá. Diêm quyẹt. Cà phê sữa. Trà, kẹo, Yaourt. (Danh mục ăn uống của tôi mới bổ sung thêm “món ăn tình cảm” yaourt). Lan Anh chạy khờ người. Nhưng nó không kêu tôi “giống ông vua” nữa. Nó chỉ mong tôi thi đậu.
Trâm và Quỳnh cũng ít qua chơi hơn. Tôi hỏi thì Lan Anh cho biết Trâm và Quỳnh muốn giữ yên tĩnh cho tôi ôn thi. Điều đó làm tôi buồn mất mấy ngày. Quỳnh đâu có biết khi Quỳnh qua chơi tôi học bài mau thuộc hơn là lúc…học trong yên tĩnh! Nhưng mà thôi, dù sao thì ngày thi cũng đang đến gần.
Sáng hôm tôi đi thi, dì tôi “bồi dưỡng” tôi một tô phở thật to. Quỳnh chạy qua “tiễn tôi lên đường” cũng được “ké” một tô. Tôi bắt chước Quỳnh, bẻ bánh mì bỏ vào tô phở, húp sì sụp. Xuất hành gặp đàn bà, ai cũng bảo là xui. Riêng tôi thì ngược lại, sáng sớm mở mắt ra đã gặp Quỳnh, tôi cho là hên hết biết!
Tới trường, tôi thấy mọi người đứng lố nhố ngoài hành lang. Thi vấn đáp, ban giám khảo kêu từng tên người một.
Trong khi chờ tới lượt mình, tôi ngồi bệt xuống trước hiên, lật sách ra xem lại. Lo thì xem vậy thôi, chứ lúc này tôi chẳng còn đầu óc nào nhét thêm lấy nửa chữ.
Ngồi kế bên tôi là một con nhỏ tóc xù, mang kiếng cận. Nó ăn mặc trông rất chướng. Quần tây ống chật bó sát hai chân, áo sơ mi rộng thùng thình dài gần tới gối. Thú thật là trông nó ngồ ngộ, tôi có liếc trộm một cái. Gương mặt nó khá đẹp, thanh tú. Mũi thẳng, hơi Tây một chút. Nhưng mái tóc của nó khiến tôi phát rét, không dám nhìn lâu.
Nó không biết tôi “rét” nó nên nó lấy đầu gối nó cụng đầu gối tôi một cái:
- Bộ ở nhà ông không chịu học bài sao tới đây ngồi học?
Tôi xoa xoa đầu gối, đáp:
- Đâu có! Ở nhà tôi vẫn học, giờ xem lại cho nhớ!
Nó nhún vai:
- Giờ này làm sao nhớ nổi!
Nó đúng là nhà tâm lý. Tôi thở dài thú nhận:
- Ừ, tôi xem mà chẳng nhớ được chữ nào!
- Vậy đừng xem nữa!
Nó góp ý mà như ra lệnh. Nghe lời nó, tôi gấp sách lại.
Thấy tôi là người dễ nghe lời xúi bậy của phụ nữ, nó khoái lắm, làm quen tiếp:
- Ông ở ngoài Trung mới vào phải không?
- Ừ.
Nó gật gù:
- Nghe cái giọng nặng chịch của ông là tôi biết liền!
Con nhỏ này kỳ cục! Tôi trạc tuổi nó mà nó cứ kêu bằng “ông”, nghe chướng chướng thế nào! Nhưng tôi nghĩ trong bụng chứ không dám nói ra. Bộ tịch và cung cách ăn nói của nó không cho phép tôi cãi lại một điều gì. Đời tôi gặp một người như Trâm đã mệt, nay lại thêm cô bạn mới này chắc sắp sửa xẹp lép như quả bong bóng xì. Bất giác tôi buông một tiếng thở dài.
Nó liếc tôi:
- Có gì đâu mà ông lo dữ vậy?
Chẳng lẽ tôi nói với nó là không phải tôi lo chuyện thi cử mà lo bị nó ăn hiếp. Tôi đành hỏi lảng sang chuyện khác:
- Chắc chị là người Sài Gòn?
Nó gật đầu:
- Tôi là dân Sài Gòn chính gốc. Nhưng ông đừng gọi tôi bằng chị, cứ gọi bằng tên, tôi thích hơn!
Nó nói giống hệt Trâm bữa trước. Trâm cũng không cho tôi gọi bằng chị. Nhưng nó bất công với tôi hơn Trâm. Nó bảo tôi gọi nó bằng tên trong khi đó nó cứ gọi tôi là “ông”, nghe phát rầu.
- Nhưng mà ch…tên gì?
- Tôi tên Dung. Đỗ Thị Ung Dung!
Cái tên thật buồn cười. Tôi nghi nghi:
- Chắc…Ung Dung nói đùa! Chứ tên gì ngộ vậy?
Ung Dung cười, giải thích:
- Tại vì tôi tuổi con ngựa. Ba tôi sợ tôi sau này phóng vèo vèo không trị nổi do đó đặt tôi cái tên Ung Dung để hãm bớt tôi lại!
Hóa ra là vậy! Cái tên mà cũng rắc rối gớm!
- Còn ông tên gì? – Ung Dung hỏi.
- Tôi tên Chương.
- Ông cũng con ngựa hả?
Thoạt nghe, tôi giật mình, tưởng Ung Dung chửi tôi. Nhưng không phải, nó muốn hỏi tuổi.
Tôi không dám nói tôi tuổi con gì, tôi chỉ nói tôi tuổi Mùi.
Ung Dung khịt mũi:
- Vậy là ông nhỏ hơn tôi một tuổi. Thuộc lớp đàn em!
Thấy nó giở giọng chơi trội, tôi vừa tức vừa buồn cười. Nhưng tôi chưa tìm ra cách gỡ gạc thể diện thì ban giám khảo đã kêu đến tên tôi.
Tôi đành phải nén tự ái, đưa cuốn sách cho nó:
- Ung Dung cầm giùm tôi!
Rồi hồi hộp bước vào phòng thi.
Ngồi sau bàn ban giám khảo có bà người. Chính giữa là một ông mập thật mập, mắt nheo nheo vừa nghiêm khắc vừa láu lỉnh. Ông bên trái tóc hoa râm, ốm nhom, nụ cười hiền hậu luôn nở trên môi. Ông bên phải mặt tròn quay, da bóng lưỡng, có hàm răng hô.
Từ đầu đến cuối chỉ có ông ngồi giữa hỏi tôi.
Gọi là từ đầu đến cuối, thực ra chỉ có ba câu. Hai câu đầu hỏi về văn học sử, một câu trúng tủ tôi đáp ro ro, câu thứ hai tôi ấp úng một hồi nhưng cuối cùng cũng trả lời được. Câu thứ ba mới té ngửa:
- Anh tên Chương phải không?
- Dạ.
- Anh thử kể một tác phẩm văn học nào có tên anh?
Câu hỏi bất ngờ khiến tôi ngớ người ra.
Tôi hoàn toàn không chuẩn bị tinh thần để đối phó với câu hỏi kiểu này. Tôi suy nghĩ toát mồ hôi vẫn chẳng lần ra mối lên hệ bí mật giữa tên tôi với cái tác phẩm quỉ quái nào đó. Đã vậy, cặp mắt nheo nheo của ông ngồi giữa cứ nhìn xoáy vào tôi càng khiến tôi bối rối tợn.
Thấy tôi sắp xỉu đến nơi, ông hiền lành ngồi bên trái liền gỡ bí:
- Một câu thơ cũng được!
Gỡ bí như vậy cũng như không, tôi thầm nghĩ, lúc này có trời mới biết tên tôi nằm ở câu thơ nào trong hàng tỉ câu thơ từ trước đến nay! Tôi nặn óc một hồi và chuẩn bị đầu hàng thì bỗng nhiên tôi nhớ đến hai câu thơ Kiều:
- Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Đó là hai câu thơ tả tâm trạng của người đi xa, thắc thỏm không biết người ở nhà đã kết duyên cùng ai chưa. Nhưng đối với tôi lúc này, giá trị của hai câu thơ nằm ở chữ “Chương”, tên tôi. Không có chữ “Chương”, câu thơ dở ẹc liền!
Tôi liền mừng rỡ đọc to hai câu thơ, giọng kính cẩn như đọc thần chú.
Khi tôi đi ra, Ung Dung hỏi:
- Trả lời được không?
Tôi mỉm cười:
- Tàm tạm.
- Tàm tạm là sao?
Tôi kể lại diễn biến cuộc thi.
Ung Dung nhún vai:
- Mấy ổng hỏi lãng xẹt!
Nói vậy nhưng nó vẫn hỏi tôi:
- Ông có biết tác phẩm nào dính đến tên tôi không?
Chuyện của tôi thì tôi mù tịt mà chuyện thiên hạ chẳng hiểu sao tôi sáng dạ quá chừng. Cái tác phẩm xa lắc xa lơ như vậy mà tôi cũng nhớ ra:
- Có quyển “Cô Dung” của Lan Khai.
Ung Dung bán tín bán nghi:
- Thật không, ông? Sao tôi nghe lạ hoắc vậy?
- Thật mà! Tôi không nhớ’ tôi đọc ở đâu nhưng người ta có nhắc đến cuốn sách này!
Nhưng cuốn “Cô Dung” chẳng giúp ích được gì cho cô bạn mới của tôi.
Ban giám khảo, vẫn cái ông mập thật mập ngồi giữa, không hỏi tên mà hỏi tuổi Ung Dung. Rồi bắt nó kể tên một tác phẩm văn học liên quan đến ngựa.
Ung Dung đứng trơ như phỗng.
Ban giám khảo giục, nó đáp liều:
- Thưa thầy, Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Lục Vân Tiên, cuốn nào cũng đều liên quan đến ngựa!
Ban giám khảo phì cười. Ông mặt tròn hỏi lại:
- Chị căn cứ vào đâu mà nói như vậy?
Ung Dung đáp tỉnh:
- Thưa thầy, căn cứ vào chỗ Kim Trọng, Từ Hải, Lục Vân Tiên mỗi khi đi đâu đều tót lên ngựa chứ chẳng có ông nào chịu đi bộ.
Ban giám khảo trợn mắt kêu nó đi ra.
Ung Dung kể với tôi như vậy rồi tặc lưỡi bình luận:
- Chắc rớt!
Tôi tiếc hùi hụi:
- Phải chi biết trước như vậy, tôi đã nhắc Ung Dung truyện “Lục súc tranh công” rồi! Trong đó có ngựa!
Ung Dung phẩy tay:
- Thôi kệ xác nó, trâu với ngựa! Rớt ở đây thì tôi ghi danh học bên Văn Khoa, lo gì!
Nhưng nó không rớt. Đúng là số nó “ung dung” thật! Hôm trường niêm yết kết quả, tôi đi coi, thấy tôi đỗ thứ 9 còn Ung Dung đỗ thứ 46 trên 50 người trúng tuyển.
Cũng nhờ tò mò coi thử nó rớt hay đậu, tôi mới biết tên nó là Kim Dung. Thoạt đầu tìm mỏi con mắt không thấy tên nó đâu, tôi tưởng nó rớt. Trên danh sách chỉ có tên Đỗ Thị Kim Dung, tôi cứ đinh ninh là đứa khác.
Đến khi tôi gặp nó, thấy nó chìa tay bắt tay tôi:
- Chúc mừng ông! Tôi cũng đậu, không đậu cao như ông nhưng nói tóm lại là tôi đã đậu!
Nó nói như diễn viên kịch. Tôi ngơ ngác:
- Ung Dung đậu hạng mấy?
Nó nhún vai theo thói quen:
- Hạng 46! Cách địa ngục có bốn bước!
Như vậy Kim Dung chính là nó. Còn Ung Dung là cái tên nó bịa ra để gạt mấy đứa cù lần, dễ tin như tôi.
Tôi tằng hắng:
- Vậy Kim Dung là…
Nó cười toe:
- Làm gì mà ông phải trố mắt ra vậy! Đó là một bài học dành cho những người ngớ ngẩn!
Nói xong, nó kéo tay tôi:
- Quên chuyện tầm phào đó đi! Bây giờ tôi dẫn ông đi uống nước để chúc mừng tôi, chúc mừng ông, chúc mừng mấy con ngựa…
- Mấy con ngựa nào?
- Thì mấy con ngựa mà Từ Hải, Lục Vân Tiên cỡi đó! Nếu thời đó người ta đã chế được honđda thì tôi đã rớt “uỵch” rồi!
Kim Dung dẫn tôi vào quán nước trước cổng trường. Không cần biết tôi thích uống thứ gì, nó kêu hai ly cà phê đá.
Tôi ngạc nhiên:
- Kim Dung cũng uống cà phê?
Nó không thèm trả lời, kêu thêm hai điếu Capstan. Nó đẩy một điếu lại trước mặt tôi, còn nó ngậm một điếu trên miệng.
Trong khi tôi đang ngẩn người ra thì Kim Dung hất hàm:
- Ông có biết lịch sự là gì không?
Tôi không biết tại sao Kim Dung lại hỏi tôi câu đó liền cúi đầu liếc coi có chiếc nút áo nào chưa gài không. Khi thấy mọi thứ vẫn nghiêm chỉnh, đâu ra đấy, tôi nhìn Kim Dung ra ý hỏi.
Nó tặc lưỡi, giải thích:
- Lửa!
Câu giải thích của Kim Dung quá vắn tắt nên đến ba mươi giây sau tôi mới hiểu nó muốn tôi châm thuốc cho nó.
Sau khi đốt thuốc, rít một hơi, nhả khói phèo phèo, Kim Dung nói giọng trịnh trọng.
- Kể từ giờ phút này, ông chính thức được coi là bạn tôi!
Nghe nó tuyên bố kết nạp tôi làm bạn, tôi thấy lo lo trong bụng. Và tôi cũng chẳng hiểu tại sao nó...