tía. Trong khi tôi thấy truyện đó dở tệ.
Chuyện kể về một chàng thư sinh nghèo nhưng chăm học.
Ban ngày chàng thư sinh vào rừng hái củi đem bán để lấy tiền mua gạo và mua dầu đèn. Ban đêm chàng cặm cụi đọc sách cho đến lúc gà hàng xóm gáy lần thứ hai mới đi ngủ.
(Chắc chắn chàng thư sinh này đọc sách giáo khoa để đi thi chứ chẳng phải đọc truyện như thằng Tường).
Nhà chàng chỉ là một túp lều con, tài sản vỏn vẹn một con dao quắm và một chồng sách.
Làm bạn với chàng chỉ có một con cóc tía, những buổi chàng học khuya con cóc nhảy ra quanh quẩn ở dưới chân chàng, đớp gọn những con muỗi bay vo ve.
(Thằng Tường đặc biệt thích đoạn này, nó có thể đọc thuộc lòng đoạn văn bằng giọng ngân nga thích thú).
Rồi tới ngày chàng lên kinh ứng thí, cóc tía cũng đi theo. Dọc đường chàng dùng viên ngọc thần của cóc tía để cứu sống một người bạn xấu.
Khi biết viên ngọc đó có khả năng cải tử hoàn sinh, người bạn xấu liền ra tay chiếm đoạt viên ngọc của chàng thư sinh.
Lúc ấy, công chúa trong cung tự nhiên lâm trọng bệnh. Nhà vua và hoàng hậu vội gọi ngự y tới cứu chữa, nhưng các quan ngự y đều bó tay. Nhà vua hấp tấp treo bảng tìm danh y, thông báo khắp kinh thành: “Ai cứu sống công chúa sẽ được tuyển làm phò mã”.
Tin đó tới tai cóc tía. Cóc tía nói với chủ: “Đây là dịp tốt để ta lấy lại viên ngọc và tìm ra kẻ cắp”. Hôm sau, tên ăn cắp ngọc đội lốt danh y vào cung chữa bệnh cho công chúa, chàng thư sinh và cóc tía tìm cách lẫn vào hàng các quan văn võ để đi theo.
Tới nơi, tên bạn xấu rút viên ngọc ở trong túi ra đặt vào mũi công chúa nhưng công chúa vẫn nằm bất động trước sự sốt ruột của nhà vua và hoàng hậu.
Giữa lúc đó, chàng thư sinh rẽ đám đông tiến lại trước mặt nhà vua, chàng vừa nói vừa chỉ vào mặt tên cắp:
- Tâu bệ hạ, trước hết xin bệ hạ hãy cho bắt giam tên này lại.
Chàng cầm lấy viên ngọc rồi chỉ vào cóc tía – bây giờ đã nằm gọn trên bàn tay của chàng – giảng giải cho mọi người nghe đây là viên ngọc cải tử hoàn sinh của cóc thần. Chỉ có cóc thần và chàng mới dùng được viên ngọc này để cứu sống người chết. Tên kia là kẻ cắp nên không biết rằng viên ngọc chỉ phát huy tác dụng nếu được sự đồng ý của cóc thần.
Đoạn, người thư sinh nhẹ tay đặt viên ngọc vào mũi công chúa. Quả nhiên, công chúa bỗng cựa mình và dần dần hồi tỉnh trước sự reo mừng của mọi người.
Đoạn kết thì dĩ nhiên là như thế này:
Sau khi công chúa được cứu sống, nhà vua bèn nhận chàng thư sinh làm phò mã.
Sau đó, chàng làm bài xuất sắc nhất trong trường thi và đỗ trạng nguyên.
Sau đó nữa thì chàng lại được toàn thể triều thần tôn lên giữ chức tể tướng.
10. Cu Cậu
Tôi không hiểu tại sao thằng Tường lại thích câu chuyện dở ẹc đó.
Lần nào cũng vậy, hễ tôi kêu nó kể chuyện bao giờ nó cũng kể chuyện Cóc tía trước tiên.
- Thôi, kể chuyện khác đi! – Tôi gạt phắt – Cóc tía, cóc tía hoài!
Tường kể chuyện khác. Nhưng qua hôm sau, khi hai anh em phủi chân chui vô mùng là nó lôi chuyện Cóc tía ra kể.
Nó cóc tía hoài đến mức tôi bực mình tuyên bố thẳng:
- Từ nay về sau mày đừng bao giờ kể chuyện cóc tía với tao nữa nghe Tường!
Chỉ đến hôm tình cờ nhìn thấy một con cóc dưới gầm giường, tôi mới vỡ lẽ tại sao Tường thích câu chuyện này đến vậy.
Con cóc tôi nhìn thấy dĩ nhiên không phải là cóc tía. Chú Đàn bảo cóc tía chỉ sống trên những ngọn núi cao, ven bờ nước hay ao hồ có nhiều cây cỏ, da có màu đỏ tía hay đỏ vàng.
Con cóc đang ngồi chồm chỗm trước mặt tôi giống như mọi con cóc tôi từng nhìn thấy: da xam xám, xù xì, dáng ngồi giống như vận động viên đang thủ thế trên bục xuất phát để chuẩn bị thi chạy 100 mét. Khi tôi ngồi xổm xuống trước mặt nó tò mò quan sát thì nó cũng giương cặp mắt lồi ra nhìn tôi đầy tư lự, có vẻ đang tự hỏi tôi là ai mà bây giờ nó mới nhìn thấy.
Tôi đang ngắm nghía con cóc thì Tường ở ngoài bước vô.
- Con cóc mày nuôi đấy à? – Tôi hỏi.
- Dạ.
- Mày đem ở đâu về thế?
- Nó ở đây từ hồi nào đến giờ, tại anh không thấy đó thôi. Hang của nó ở dưới chân giường mình.
Tường nói và thảy xuống trước mặt con cóc bảy, tám xác ruồi nó vừa kiếm được bằng cái vỉ đập ruồi đan bằng nan tre còn cầm trên tay.
- Thức ăn của mày nè, Cu Cậu?
Con cóc nhảy tới, cái lưỡi nhọn thò ra thụt vào nhanh như chớp, nhoáng một cái mớ ruồi đã biến sạch.
- Nó tên là Cu Cậu à?
- Dạ. Em đặt tên cho nó đó. Nó là thằng cu nhưng nó cũng là cậu ông trời. – Tường vừa nói vừa ngồi xuống cạnh tôi, mắt không ngừng dán vào Cu Cậu lúc này đang quay lưng ì ạch nhảy về hang sau khi chén xong bữa tiệc ruồi.
Chắc Cu Cậu đói bụng nên bò ra đợi Tường. Tôi nghĩ, và hỏi:
- Nhưng nó đâu phải là cóc tía?
- Dạ.
- Vậy nó đâu có viên ngọc cải tử hoàn sinh để tặng mày?
- Dạ.
Tôi vỗ vai Tường, cười khì:
- Cho nên mày đừng có mơ đến chuyện cưới công chúa.
Tường không đáp trả câu trêu của tôi. Nó hỏi, mắt mơ màng:
- Công chúa có thật trên đời không anh Hai?
Tôi vò tóc, ngập ngừng:
- Tao cũng chẳng biết nữa. Hồi xưa thì có, bây giờ tao nghĩ chắc là không có.
11. Chị Vinh
Thằng Tường rất cưng Cu Cậu.
Từ ngày biết có một con cóc dưới gầm giường, tôi để ý thấy Tường ngày nào cũng kiếm thức ăn về cho Cu Cậu.
Cu Cậu dĩ nhiên vẫn tự mình kiếm ăn. Nó ăn ruồi, muỗi và sâu bọ.
Nhưng Tường vẫn sợ Cu Cậu không đủ no. Nó chuốt tre, đan một cái vỉ hình tam giác, lúc rảnh rỗi lại cầm đi săn ruồi.
Bữa ăn nào, Tường cũng nhặt cơm rơi vãi, gom lại để dành cho Cu Cậu.
Đêm nào Cu Cậu nghiến răng ken két dưới gầm giường, sáng hôm sau thế nào trời cũng mưa.
Những ngày mưa đối với anh em tôi luôn luôn là những ngày tuyệt vời.
Trong khi tôi và Tường mặc nguyên quần áo dầm mưa và rượt nhau ngoài trời, Cu Cậu cũng hớn hở nhảy khỏi gầm giường, men theo tới cửa để rình đớp những chú mối bay ngang.
Tôi và Tường nghịch mưa chán lại chen nhau đứng dưới máng xối để nghe nước dội ồ ồ lên đầu lên cổ, tưởng tượng đang tắm dưới một ngọn thác hùng vĩ, mặc dù cho đến lúc đó ngoài các hình vẽ trong sách giáo khoa, tôi chưa nhìn thấy thác bao giờ.
Dầm mưa một lát, bao giờ thằng Tường cũng quay vào chơi với Cu Cậu bằng cách mà Cu Cậu thích nhất là phụ với chú bắt những con mối cánh.
Những lúc như vậy, tôi bỏ mặc thằng Tường với con cóc của nó, ba chân bốn cẳng băng ngang đường lộ, nôn nao chạy qua nhà chị Vinh.
Nhà chị Vinh là ngôi nhà ngói to nhất làng, trước nhà có cái sân gạch rộng mênh mông với cây phượng lâu năm tỏa bóng dưới góc rào, nơi bọn trẻ con chúng tôi thường tụ tập chơi nhảy lò cò, chơi u, chơi bịt mắt bắt dê và đủ thừ trò hấp dẫn khác.
Chị Vinh lớn hơn tôi sáu tuổi.
Trong khi tôi vẫn là thằng nhóc mười ba tuổi thì chị đã là cô thiếu nữ xinh đẹp, nhưng gầy gò. Da chị trắng hồng, tóc chị đen, dày và dài chấm lưng, khi chị cười đôi mắt chị nhắm tít, trông như hai dấu trừ, đuôi mắt dài thật dài.
Tôi thích nhất là lúc chị cười.
Chị lại rất hay cười với tôi, mặc dù trong sân nhà chị ngoài tôi ra lúc nào cũng có một bọn nhóc con chạy nhảy hò hét ầm ĩ.
Chị Vinh hay cười với tôi là vì chị thích chú Đàn.
Chuyện này chính thằng Tường kể tôi nghe.
Nó bảo:
- Anh không nhớ hồi đó ngày nào chú Đàn cũng đứng dưới cây phượng trước nhà chị Vinh thổi acmônica suốt đêm sao?
- Tao nhớ.
Tôi nói và tôi nhớ không ít lần ba tôi hầm hầm xô cửa xách gậy đi ra, mắng “Mày khùng hả Đàn? Sao mày không cho ai ngủ hết vậy?”, lúc đó chú Đàn mới co giò bỏ chạy.
Tường nói như một kẻ sành sỏi:
- Chú Đàn tỏ tình với chị Vinh đó.
Tôi nhún vai:
- Mày là nhóc con mà biết gì!
- Chính chú Đàn nói với em mà.
- Tỏ tình bằng tiếng kèn à?
- Ờ.
Nếu chú Đàn nói với nó thì đúng rồi! Tôi làm thinh một lát, lại thắc mắc:
- Sao cả tháng nay tao không thấy chú Đàn thổi kèn dưới gốc phượng nữa hở mày?
Hóa ra thằng Tường cũng từng thắc mắc y hệt tôi. Nó chép miệng:
- Em đã hỏi chú Đàn rồi.
- Chú bảo sao?
Tường cười khúc khích:
Chú bảo chị Vinh đã mê chú, chú không cần phải khản cổ “gặm bắp nướng” hằng đêm nữa.
12. Chim Xanh.
Chị Vinh mê chú Đàn không chỉ nhờ tiếng kèn.
Chị mê chú còn vì những bức thư tình nồng nàn của chú.
Lại cũng Tường kể với tôi. Thằng này có cái tật lớn là không bao giờ kể chuyện một lèo. Chuyện gì cũng vậy, nó cứ hôm nay he hé một chút. Có nhiều chuyện khi tôi nghe được phần sau thì đã quên béng mất phần đầu.
Người đưa thư cho chú Đàn dĩ nhiên là thằng Tường.
Tôi không hiểu tại sao chú Đàn không nhờ tôi. Tôi ghen tị nghĩ, nhưng rồi tôi tự giải đáp được ngay: Ba chị Vinh là thầy Nhãn, là thầy giáo chủ nhiệm lớp tôi, chú Đàn không nhờ tôi có lẽ sợ tôi khiếp vía thầy sẽ làm hỏng việc.
Khi nghe Tường kể, tôi công nhận chú Đàn tính toán hay thật.
Chú Đàn viết thư bỏ vào phong bì rồi lật áo thằng Tường lên, nhét phong thư ngang lưng quần, giấu sau vạt áo.
Buổi trưa, Tường chạy qua nhà chị Vinh, réo inh ỏi:
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Chị Vinh bước ra:
- Có chuyện gì thế em?
Chú Đàn bày cho Tường cả chục câu trả lời:
- Chị cho mẹ em xin quả ớt.
- Chị cho mẹ em xin quả chanh.
- Chị cho mẹ em mượn chai xì dầu.
- …
Tùy theo câu trả lời của Tường mà chị Vinh đưa cho nó một quả chanh, một quả ớt hay một chai xì dầu, tay kia lật áo thằng Tường rút phong thư rồi lật đật giấu vào vạt áo của chị.
- Thế mày qua nhà mà thầy Nhãn không hay biết à? – Tôi thắc mắc.
- Biết chứ.
Tôi cắn môi:
- Thế thầy không hỏi gì sao?
- Có. Thỉnh thoảng thầy có hỏi “Con đi đâu đó Tường?”. Có hôm thầy hỏi “Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?”.
Tôi rụt cổ:
- Nều tao là mày chắc tao tè ra quần rồi.
- Thầy chỉ ngồi trong nhà hỏi vọng ra thôi.
- Ngồi trong nhà hay ngồi đâu cũng vậy. – Lần này tôi vừa rụt cổ vừa rùng mình – Hễ nghe giọng thầy cất lên là tao muốn xỉu rồi.
Tường cười khì khì:
- Anh nhát gan quá.
Bị chê, tôi nổi khùng:
- Mày ngu quá! Tại giáo viên chủ nhiệm của mày là cô Trang. Nếu mày học thầy Nhãn như tao thử coi mày có nhát gan không!
13. Chim Xanh Gặp Nạn
Chú Đàn gọi việc chuyển thư của người con trai đến người con gái là “làm chim xanh”.
Chú khen Tường “con là con chim xanh giỏi nhất thế gian” làm thằng nhóc sướng rơn.
Nhưng con chim xanh giỏi nhất thế gian đó cũng có ngày gặp nạn.
Chuyện Tường gặp nạn, cả tuần lễ sau nó mới bẽn lẽn kể tôi nghe. Tôi đã nói rồi, thằng này nó chẳng có chuyện gì chịu kể dứt một lần.
Hôm đó như mọi lần Tường nhét lá thư của chú Đàn vào lưng quần rồi vù qua nhà thầy Nhãn.
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Tường đứng ngoài sân, kêu lớn. Nhưng lần này nó không thấy chị Vinh đâu.
Người từ trong nhà đi ra là thầy Nhãn.
Nhìn bộ mặt khó đăm đăm của thầy, lúc đó Tường mới biết thế nào là sợ hãi. Nó hoàn toàn bất ngờ, ruột gan như trôi tuột đi đâu mất. Nó chợt nhớ đến con rồng hai đầu canh giữ vườn táo vàng trong câu chuyện nó vừa đọc và nhìn lom lom vào cổ áo thầy, hồi hộp chờ một cái đầu thứ hai mọc ra từ chổ đó.
- Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?
Thầy Nhãn lại gần và cất tiếng hỏi, giọng lạnh tanh.
Tường lấm lét liếc xuống vạt áo rồi ngước nhìn thầy:
- Dạ, con hỏi xin cho mẹ con quả chanh.
Ánh mắt thằng Tường đã tố cáo nó. Thằng Tường nói với tôi như vậy. Bàn tay thầy Nhãn lần theo tia nhìn của nó, mò vào dưới vạt áo.
Thầy rút lá thư ra khỏi lưng quần Tường rồi quay gót trở vào nhà, không nói một tiếng nào.
Mặt xanh như tàu lá, Tường đứng trơ giữa sân nắng có đến vài phút, tay chân cứng đờ, chỉ muốn khuỵu xuống.
Đến khi nó nhúc nhích được, nó bất chợt òa khóc.
Tường chạy về nhà, vẫn không ngừng nức nở cho đến khi chú Đàn đang chờ sẵn ở bụi chuối sau hè dang tay ôm lấy nó.
- Nín đi con. Có chuyện gì thế?
Nghe chú Đàn hỏi, Tường càng khóc to hơn. Câu hỏi giống như mũi dao khoét vào vết thương lòng của nó, nếu có thể xem tai nạn của nó xứng đáng để gọi là “vết thương lòng”. Và thế là nó khóc tức tưởi, khóc tồ tồ như vòi nước bị hỏng khóa.
Chú Đàn vén áo nó lên, không thấy là thư đâu, ngẫm nghĩ một lát rồi khẽ giọng hỏi:
- Con không gặp chị Vinh hở?
- Dạ… không… – Tường đáp qua tiếng khóc.
Chú Đàn thở ra:
- Con đừng khóc nữa.
Tường vẫn tiếp tục khóc, có lẽ nó cũng muốn ngưng lại nhưng không ngưng được. Con người ta khóc cũng giống như trời mưa. Chỉ khi nào hết nước thì trời mới thôi mưa và chúng ta mới thôi khóc.
Thằng Tường cũng vậy thôi. Nó khóc, khóc hoài. Nhưng dần dần tiếng khóc yếu đi, một hồi sau chuyển qua thút thít. Rồi tanh hẳn.
Lúc đó nó mới rảnh để lắp bắp:
- Thầy Nhãn…
Chú Đàn xoa đầu nó:
- Chú biết rồi, con không cần kể nữa.
Rồi chú đứng lên:
- Để chú xé giấy xếp cho con chiếc máy bay.
Chiếc máy bay giấy của chú Đàn khiến mặt thằng Tường nở ra. Nó phóng máy bay kiệng vòng vèo trong vườn và quên rất nhanh những giọt nước mắt vừa tắm ướt hai gò má nó.
Tôi tặc lưỡi, khi Tường kể xong:
- Mày ngu quá. Không phải chỉ đến khi nhìn ánh mắt của mày thầy Nhãn mới biết mày lận thư dưới vạt áo đâu.
Tường ngơ ngác:
- Thầy biết từ trước hở anh?
Tôi đá chân vào chân nó, giọng hiểu biết:
- Tao nghĩ thầy biết lâu rồi. Chả ai lại xin ớt, xin chanh, xin xì dầu hoài như thế. Có họa là hâm!
14. Gió Mưa Là Bệnh Của Trời
Một hôm, tôi tò mò hỏi thằng Tường:
- Mày có nhớ mày đưa thư dùm chú Đàn bao nhiêu lần rồi không?
Tường véo môi, ngập ngừng:
- Mười mấy lần.
- Nhiều thế cơ à?
- Dạ.
Tôi nheo mắt:
- Thế có lần nào mày lén mở thư ra xem chú Đàn viết gì trong đó không?
- Có một lần. – Tường ngượng ngập đáp, mặt ửng lên như đột ngột tráng một lớp ráng chiều.
Tôi xích lại gần nó hơn:
- Chú Đàn viết gì trong đó vậy?
- Hình như là một bài thơ.
- Thơ à?
- Vâng.
- Thơ gì vậy?
- Em không biết.
- Thế mày có nhớ một câu nào không?
- Em nhớ được hai câu.
- Mày đọc tao nghe coi.
Tường đọc:
- Gió mưa là bệnh của trời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Tôi không biết đó là thơ Nguyễn Bính. Tôi chỉ thấy hai câu thơ hay hay, ngồ ngộ. Và tôi nhẩm hoài trong miệng để khỏi quên.
Suốt mấy ngày tôi chẳng biết làm gì với hai câu thơ đó, cho tới khi tôi chợt nhớ con Xin ngồi cạnh tôi trên lớp.
Xin là con bé xinh xắn, mặc dù hai gò má nó trổ đầy tàn nhang. Tôi, nó và thằng Sơn con ông Ba Huấn ngồi chung một bàn. Tôi ngồi chính giữa, nó ngồi bên phải, thằng Sơn ngồi bên trái.
Hằng ngày tôi và thằng Sơn vẫn hay trêu nó. Đang ngồi học, tôi thình lình quay sang nó:
- Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin chứ ăn gì!
Một lát đến thằng Sơn:
- Ôi, đói bụng quá! Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin!
Bị trêu “ăn xin”, lần nào con Xin cũng thút thít khóc. Nó giận dỗi ngoảnh mặt đi chổ khác, không thèm nói chuyện với bọn tôi.
Nhưng tính nó mau quên. Qua ngày hôm sau nó lại bị mắc lõm hai đứa tôi một cách dễ dàng. Nghe tôi hỏi “Ăn không, Xin?” nó lại láu táu “Ăn gì?”. Để rồi sau đó rơm rớm nước mắt cả buổi. Cả ngàn lần như vậy.
Có nghĩa cả ngàn lần tôi thấy nó khóc.
Tới lần thứ một ngàn lẻ một, tôi đột ngột hiểu ra tôi hay chọc con Xin khóc vì tôt thích mê tơi vẻ ngúng nguẩy hờn giận của nó. Nhiều đứa con gái lúc bình thường trông chẳng có gì đặc biệt nhưng không hiểu sao khi giận dỗi nom chúng đáng yêu quá chừng.
15. Đồ Tham Lam
Tôi quyết định gửi hai câu thơ “hay hay, ngồ ngộ” kia cho con Xin.
Tôi chẳng hiểu tại sao tôi làm vậy, nhưng tôi biết là tôi không đừng được.
Có lẽ tôi muốn bắt chước chú Đàn.
Trong tâm hồn non nớt của tôi, nếu tôi là chú Đàn thì chị Vinh dứt khoát phải là con Xin.
Tôi xé tập, nắn nót viết hai câu thơ lên tờ giấy trắng rồi gấp làm tư bỏ vào phong bì.
Nhưng tôi không giúi lá thư vào tay con Xin, mặc dù điều đó thật là dễ dàng. Tôi muốn nhất nhất đều giống chú Đàn.
Giờ ra chơi, tôi kéo thằng Sơn ra sau hè, móc túi lấy lá thư ra đưa cho nó:
- Lát vô học mày đưa lá thư này cho con Xin giùm tao!
- Thư gì vậy? Mày không tự đưa được à?
- Không được. – Tôi nói, giọng trải đời – Những lá thư như thế này người ta phải nhờ tới “chim xanh”.
- Chim xanh á? – Thằng Sơn ngẩn tò te – Chim xanh là gì?
Tôi gãi đầu:
- Chim xanh tức là… người đưa thư đặc biệt.
Tôi vỗ vai Sơn, bằng động tác đó tôi hy vọng có thể dập tắt những câu hỏi tiếp theo chắc là rất oái oăm của nó:
- Mày là chim xanh của tao.
Sợ nó từ chối, tôi hắng giọng tâng bốc:
- Chim xanh oai lắm! Không phải ai cũng làm chim xanh được đâu. Phải là người giỏi giang lắm mới làm được.
- Nhảm nhí!
Thằng Sơn phun nước bọt qua kẽ răng, nhưng nó không từ chối. Nó giương cặp mắt ti hí nhìn tôi, giọng rặt mùi hám lợi:
- Thế làm chim xanh thì tao được gì?
- Được gì hả? – Tôi ấp úng hỏi lại, hoàn toàn không chờ đợi một thắc mắc như vậy.
- Ừ. – Thằng Sơn thẳng toẹt – Đưa thư dùm mày tao phải được trả công gì chứ?
Tôi thò tay vào túi quần mò mẫm, bụng tiếc hùi hụi sao trước đây con ma treo cổ trong nhà thằng Sơn không bắt hồn nó quách cho rồi.
Tôi khoắng tay trong túi một hồi, lôi ra một vốc bi ve đủ màu.
Học trò thôn quê chẳng có lắm trò chơi như học trò thành phố, lớn tồng ngồng rồi vẫn quanh quẩn với trò chơi bi, chơi đáo và các trò con nít khác.
- Mày xem đi! – Tôi chìa nắm bi trước mặt nó – Mày được quyền lấy viên bi nào mày thích!
Sơn trợn mắt nghiêng ngó, lấy tay khều khều từng viên bi rồi liếm mép:
- Viên nào tao cũng thích hết.
- Là sao? – tôi tròn xoe mắt.
- Tao lấy hết chỗ này. – Sơn nhăn nhở.
- Tao đập mày nghe, Sơn! – Tôi phồng mang, mặt đỏ bừng – Cả tuần nay tao mới đánh thắng được chừng này. Mày lấy hết tao lấy gì tao chơi.
- Mày không đồng ý thì thôi. – Sơn vừa nói vừa quay mình bỏ đi – Tự mày đưa thư cho con Xin đi.
Tôi thấp thỏm nhìn theo con “chim xanh”, lòng bổng chốc rối bời.
Một chuyện như thế này mà không có “chim xanh” là hỏng bét, tệ nhất là tôi không thể giống chú Đàn được.
Cuối cùng tôi hét lớn:
- Tao đồng ý!
Tôi tiếc nuối trút hết số bi trên tay vào tay thằng Sơn, giọng chán ghét:
- Đồ tham lam!
16. Đồ Lăng Nhăng
Ra chơi vô, thằng Sơn có thêm một lá thư trong túi áo và một vốc bi trong túi quần,
người nó tăng lên vài gam.
Nhưng nó đi rất nhanh.
Nói đúng ra nó đi nhanh là do tôi cố tình đi chậm.
Bàn ba đứa, con Xin ngồi sát tường, rồi tới tôi, rồi mới tới thằng Sơn. Nếu len vào chổ theo thứ tự lâu nay, tôi sẽ ngán đường thằng Sơn.
Đó là lý do tôi tụt lại phía sau, mắt bám chặt con “chim xanh” từng giây một.
Tôi...