Khánh mở ra con đường hẻm cạnh nhà, còn cửa sổ phòng tôi thì mở ra khu vườn xanh ngát phía sau.
Hai anh em vừa dọ dẫm quanh phòng vừa sờ tay lên bức tường mát rượi, miệng trầm trồ thích thú. Như vậy là kể từ hôm
nay, mỗi đứa tôi sẽ có một căn phòng riêng, hệt như người lớn. Chúng tôi sẽ ngủ trên những chiếc giường riêng của mình, mặc tình lăn qua lăn lại, xoay ngang xoay dọc, khỏi sợ làm phiền ai. Sẽ không còn tình trạng người này nằm ngủ gác chân lên mặt người kia và suốt đêm cứ vang lên chằm chặp tiếng la lối vì những cú giật mền thô bạo.
Chỉ có khoản học là chúng tôi phải học chung trong căn phòng dưới nhà, nơi mà anh Khánh bắt tôi phải treo chiếc lồng sáo ở đó để “chơi chung”. Theo ý kiến của ba tôi, hai người học chung với nhau bao giờ cũng hứng thú hơn là một người, đồng thời hai anh em tôi có cơ hội kiểm soát lẫn nhau để nếu có đứa nào ngủ gục hoặc trốn học chuồn đi chơi thì đứa kia báo lại cho ba tôi.
Trong khi hai đứa tôi còn loay hoay trong phòng thì các anh bảo vệ đã khiêng đồ đạc lên tới. Có tiếng hỏi to ngoài cửa:
- Cái tủ này đem vào phòng nào đây?
Tôi và anh Khánh tức tốc chạy ra.
Thấy chiếc tủ đứng chắn ngang cửa, anh Khánh chỉ tay về phía phòng tôi:
- Cái tủ này của thằng Kha, khiêng vô phòng kia!
Rồi nhác thấy cái bàn của mình vừa ló lên khỏi cầu thang, anh ngoắc lia:
- Đem lại đây! Khiêng cái bàn đó vô phòng này!
Trong khi anh Khánh đang sai khiến các anh bảo vệ theo phong cách “chỉ huy” của mẹ tôi, tôi chạy ù xuống nhà. Tôi sực nhớ đến cái bể cá và chiếc lồng sáo của mình. Từ khi dọn nhà qua đây đến giờ, tôi quên bẵng việc thay nước cho những con cá yêu quí của tôi, chẳng hiểu chúng đã bị chết ngạt chưa.
Như để làm dịu bớt nỗi lo của tôi, vừa thấy tôi đến bên cạnh, những con cá khôn ngoan kia liền quẫy mạnh chiếc đuôi đẹp đẽ của mình và lượn lờ bơi qua bơi lại trong bể nước cạn. Còn con sáo láu lỉnh thì nhảy nhót quanh lồng với vẻ mừng rỡ, thậm chí nó còn bám cả lên vách lồng với tư thế nghiêng người, miệng tía lia “có khách, có khách”, “ba về, ba về” khiến các anh bảo vệ vừa từ trên lầu đi xuống phải đảo mắt ngó quanh.
Lát sau, anh Khánh hộc tốc chạy xuống. Có lẽ cũng như tôi, trong khi sắp xếp đồ đạc và bài trí căn phòng, anh sực nhớ đến thùng đồ chơi của mình.
Y vậy, vừa xuống khỏi cầu thang, anh lao ngay đến thùng các- tông nằm kế bể cá của tôi. Anh cầm sợi dây buộc giật giật mấy cái rồi ngó tôi:
- Mày lục lọi gì trong thùng đồ chơi của tao phải không?
Tôi đỏ mặt:
- Em có lục gì trong đó đâu.
Anh nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ:
- Tao nhớ hồi sáng tao buộc dây thật chặt, sao bây giờ nó lỏng thế này?
- Em đâu biết.
- Chứ không phải mày vừa lấy món gì trong này hả?
Câu hỏi trắng trợn của anh Khánh khiến tôi nhăn mặt:
- Em lấy đồ chơi của anh làm gì! Em có lấy, mai mốt anh cũng giật lại vậy!
Anh Khánh nhún vai:
- Bây giờ mày có phòng riêng, mày len lén mày chơi trong đó làm sao tao biết!
Bị nghi ăn cắp, tôi tức điên lên nhưng chẳng biết phải làm gì. Tôi bèn bĩu môi:
- Em thèm vào đồ chơi của anh! Em thích bể cá, chiếc lồng sáo và những con dế của em hơn.
Nói xong, tôi cầm chiếc lồng sáo đi lên lầu.
Thấy tôi bỏ đi, anh Khánh ôm thùng đồ chơi lẽo đẽo đi theo. Vừa đi anh vừa làu bàu hăm dọa:
- Lát nữa tao mở thùng đồ chơi ra, nếu thiếu một món nào mày sẽ biết tay tao!
Tôi hừ mũi:
- Thì anh cứ mở ra đếm lại đi! Càu nhàu hoài!
Và tôi đưa tay bịt tai lại, tỏ ý không thèm nghe những lời nhấm nhẳng khó chịu của anh.
Dĩ nhiên là đồ chơi của anh Khánh không thiếu một món nào. Sau khi mở thùng, tẩn mẩn lấy ra từng chiếc xe một, vừa lấy vừa đếm, thấy chúng vẫn còn đầy đủ, anh Khánh chạy qua phòng tôi cười hì hì:
- Còn đủ cả, Kha ơi! Vậy là mày không lấy cắp!
Lòng đầy giận dỗi, tôi giả vờ như không nghe thấy. Đứng trên chiếc ghế kê cạnh cửa sổ, tôi loay hoay tìm cách treo chiếc lồng sáo, mắt không thèm liếc về phía cửa phòng lấy một li.
Ngoài bể cá vàng, chiếc lồng sáo và những hộp dế, gia tài của tôi còn có một ngăn sách nhỏ. Đó là những cuốn sách do chính tay tôi mua bằng tiền xin mẹ hoặc tiền nhịn quà sáng. Trước đây, những cuốn sách của tôi đặt trong chiếc tủ chung ở phòng học của hai anh em. Nhưng từ khi có phòng riêng, tôi đem chúng về phòng mình. Anh Khánh chẳng ham thích gì chuyện đọc sách nên không hề ngăn cản hành động tư hữu đó của tôi.
Ngăn sách của tôi không nhiều nhưng hầu như cuốn nào tôi cũng thích. Có những cuốn tôi đọc đi đọc lại nhiều lần mà vẫn không chán như “Đất rừng phương Nam” hay “Rô- bin- sơn Cơ- ru- xô”.
Từ khi có căn phòng riêng, mỗi buổi chiều tôi thường ngồi đọc sách trên chiếc bàn đặt cạnh cửa sổ. Tiếng gió thoảng, tiếng lá xào xạc và tiếng chim hót líu lo bên tai dường như khiến cho những trang sách sinh động hẳn lên và trong trạng thái êm dịu tuyệt vời đó, tôi tha hồ để cho trí tưởng tượng bay xa.
Nhiều khi tôi đem sách ra cuối vườn ngồi đọc, túi không quên nhét theo mấy hộp dế để khi nào đọc sách chán, tôi lôi chúng ra khích chúng đá nhau và tận tình cổ vũ cho cả hai phía.
Mỗi khi ra vườn, tôi thích ngồi bệt xuống trên cỏ, mặc dù không ít lần tôi bị Mẹ mắng về tội làm dơ quần áo. Nhưng không hiểu sao tôi không cưỡng lại được thói quen đó. Có lẽ trước đây trong những trường hợp như vậy, ngoại tôi chẳng bao giờ mắng tôi. Cho nên tới nay, hễ len lỏi giữa màu xanh cây lá, tôi như chìm đắm vào thế giới quen thuộc với những hương vị quen thuộc và thế là cánh mũi tôi hấp háy và tôi lại ngồi bệt xuống cỏ.
Cũng có khi tôi ngồi đọc sách trên thành giếng mặc dù khi ngồi trên những tảng đá ẩm ướt rêu đó, tôi nhìn vào trang sách thì ít mà ngắm những bông khế dập dềnh trong lòng giếng thì nhiều. Mặt nước trong vắt được trang điểm bởi màu vàng của lá và màu trắng của bông khế với đường viền xanh rêu chung quanh đối với tôi cũng là một trang sách kỳ diệu không kém và tôi đọc chúng không chán mắt.
Không những đọc sách dưới đất, tôi còn đọc sách ở trên trời. Đó là những lúc tôi nổi máu nghịch ngợm trèo lên cây ổi già, sách giắt nơi cạp quần, và sau khi chọn được một chạc ba chắc chắn, tôi ngồi tựa lưng vào thân cây, chân thõng lơ lửng trong khoảng không, giở sách ra đọc. Có hôm tôi ngồi vắt vẻo như vậy đến hàng giờ, vừa đọc sách vừa nhâm nhi vị chát của ổi non.
Một điều may mắn đối với tôi là khu vườn phía sau với khoảng sân đằng trước không hề ăn thông với nhau do hai bên hông nhà đều bị bịt kín, không có lấy một lối đi nhỏ. Hông bên trái đụng ngay nhà hàng xóm, gần như chung vách, hông bên phải tiếp giáp với con hẻm. Nhờ vậy, cái không khí huyên náo ở phía trước không có cơ hội lây lan đến cuộc sống yên tĩnh của khu vườn và tôi mặc sức thả hồn theo những giấc mơ điền dã.
Anh Khánh chẳng mê gì khu vườn. Ngày mới dọn đến, anh còn rảo ra vườn được mấy lần, nghiêng nghiêng ngó ngó. Sau một hồi lùng sục, anh phát hiện ra những chùm mận đầu mùa thưa thớt trên cao. Thế là anh hăm hở trèo lên và hái một lúc đến bốn, năm trái. Nhưng sau khi cho một trái vào miệng cắn thử, anh nhăn mặt tít cả mắt và vội ném tất cả những trái mận vừa hái ra xa.
Tôi cười hỏi:
- Chua hả?
- Ừ, chua lè! Dòm bên ngoài, tao cứ tưởng chín!
Nói xong, anh bỏ vào nhà một mạch. Từ hôm đó, tôi không thấy anh bén mảng ra sau vườn nữa. Anh thích chơi trong nhà hoặc trước hiên hơn. Chính ở đó, những chiếc xe của anh mới tung hoành được. Chúng không thể chạy trên những mặt đất lồi lõm, càng không thể chạy trên cỏ.
Chỉ thỉnh thoảng, anh mới chạy ra vườn, chủ yếu để xem những trái mận đã chín chưa và bao giờ anh cũng quay vào với vẻ mặt thất vọng.
Cũng như anh Khánh, ba mẹ tôi ít đặt chân đến mảnh đất phía sau nhà. Không phải vì hai người không quan tâm đến khu vườn nhưng mẹ tôi hiện nay đang bận rộn trong việc khai thác ưu thế của mặt tiền ngôi nhà trong việc kinh doanh. Việc chạy tới chạy lui chuẩn bị cho công việc làm ăn chiếm hết thì giờ của mẹ. Còn ba tôi, với tầm nhìn xa rộng của mình, thì tuyên bố rằng sắp tới ông sẽ cho đốn tất cả các loại cây vô bổ đang có trong vườn để thay vào đó các loại cây kinh tế hơn hoặc cũng có thể ông sẽ thực hiện những công trình xây dựng trên cái phần diện tích dự trữ đó. Và sở dĩ cho đến hôm nay, ba tôi chưa đả động gì đến khu vườn là vì ông đang còn phải tham khảo thêm ý kiến của bạn bè.
Tôi đón nhận dự định khủng khiếp đó của ba tôi với nỗi đau khổ vô bờ bến. Đau khổ nhất là trong những vấn đề như thế này, một đứa trẻ con như tôi không được phép có ý kiến, nhất là những ý kiến có tính chất phản kháng. Trong những ngày đó tôi buồn bã như một con chó ốm. Trừ buổi sáng phải đến lớp, suốt thời gian còn lại trong ngày, tôi tha thẩn ở ngoài vườn. Tôi thì thầm trò chuyện với những chiếc lá, thông báo cho chúng biết số phận nghiệt ngã sắp xảy ra với khu vườn đồng thời an ủi chúng bằng một giọng sụt sùi cố nén. Đáp lại sự lo lắng của tôi, những chiếc lá khẽ cựa mình vung vẩy trong gió như muốn an uỉ lại tôi bằng thứ ngôn ngữ rì rào của chúng. Điều đó khiến lòng tôi nhẹ nhõm được đôi chút.
Trong khi cùng chờ đợi cơn ác mộng xảy đến, tôi và khu vườn càng ngày càng trở nên thân thiết. Chúng tôi gắn bó với nhau và hiểu ý nhau như những người bạn quen thân từ thời thơ ấu.
Suốt một tháng trời sau đó, tôi vẫn sống trong tâm trạng phập phồng. Nhưng rồi nỗi lo âu mỗi ngày một giảm bớt khi tôi nhận thấy ba tôi vẫn chưa tỏ vẻ gì sắp bắt tay vào thực hiện ý định của mình. Có lẽ ông đang còn lưỡng lự trước khi quyết định dứt khoát sẽ cải tạo khu vườn theo hướng nào.
Lúc này, đánh bạn với tôi ngoài vườn còn có con sáo thân yêu của tôi. Sau cái ngày tôi phát hiện ra nó đã kịp bắt chước những từ ngữ không đẹp đẽ gì của anh Khánh, tôi liền đem nó ra ngoài vườn và treo chiếc lồng trên cây khế cạnh giếng đá. Anh Khánh tức lắm nhưng không dám làm gì tôi vì sợ tôi nói lộ ra chuyện chửi thề của mình.
Từ ngày con sáo ra đây, tôi dạy nó nói thêm được bốn câu mới “chào anh Kha”, “chào anh Khánh”, “đói bụng” và “khát nước”. Con sáo của tôi học nói rất mau nhưng khổ nỗi nó không làm sao học được cách sử dụng những câu nói đúng chỗ, đúng lúc. Thấy tôi, có khi nó nói “chào anh Kha” nhưng lúc hứng lên nó lại “chào anh Khánh” khiến tôi tức điên lên. Cũng vậy, rất nhiều lần nó gào toáng lên “khát nước” làm như sắp chết khát đến nơi nhưng khi tôi vội vã đem nước lại thì nó ngó lơ đi chỗ khác y như muốn chọc quê tôi. Tôi đã cố gắng hết sức giảng giải cho nói hiểu khi nào thì nên nói câu này, lúc nào thì nên nói câu kia và trong những lúc đó, như để đáp lại sự kiên nhẫn của tôi, nó đứng yên lặng nghiêng đầu lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật gù tỏ vẻ hiểu biết khiến tôi cảm động và mừng rỡ vô cùng. Nhưng lần nào cũng vậy, sau khi giảng giải đến khô cả cổ, tôi bảo nó thực hành, nó lại nhìn tôi và hét lên vui vẻ “chào anh Khánh” làm tôi chán nản đến mức sau đó tôi chỉ ăn được có một chén cơm.
Tuy vậy, tôi vẫn rất mến nó bởi tôi hiểu dù sao nó cũng chỉ là một con vật. Một con vật thì không thể nào buộc nó phải thông minh như con người. Thôi thì kệ nó, nó muốn nói gì thì nói, miễn đừng nói bậy là được rồi! Tôi nghĩ vậy và chẳng còn bứt rứt về chuyện nó kêu tôi là “anh Khánh” nữa.
Độ rày, tôi phải đi học thêm mỗi tuần ba buổi chiều, vì vậy thì giờ tôi dành cho khu vườn ít hơn. Nhưng cũng chính vì vậy những buổi chiều còn lại, thời gian tôi ở ngoài vườn lâu hơn. Có khi tôi ngồi đọc sách đến sáu giờ, sáu giờ rưỡi, lúc ban ngày và ban đêm bắt dầu giao nhau và những dòng chữ trên trang sách không còn trông rõ nữa, tôi mới lững thững quay vào nhà. Bây giờ, những câu chuyện ma quái của anh Khánh không còn làm tôi sợ hãi nữa. Khu vườn đã trở nên thân thiết với tôi đến mức tôi hoàn toàn tin cậy nó và tôi nghĩ rằng nếu không sợ bị mẹ mắng tôi có thể nằm ngủ qua đêm trên những chiếc nệm cỏ ngoài vườn một cách thanh thảnh với nhiều giấc mơ đẹp.
Vào một buổi chiều nọ, lúc đó có lẽ khoảng bốn giờ hay hơn một chút gì đó, tôi đang đi tha thẩn ở mé vườn phía bên nhà hàng xóm, mắt nhìn đăm đăm lên những tàng mít để xem thử có cái dái mít nào không, hái xuống chấm muối ăn chơi, thì bỗng nghe có tiếng sột soạt vọng lại từ mé vườn bên kia, phía con hẻm.
Thoạt đầu tôi không để ý nhưng tiếng sột soạt cứ chốc chốc lại vang lên khiến tôi lấy làm lạ. Tôi bước tới một vài bước, kiễng chân lên nhìn xuyên qua kẽ lá và điều vừa trông thấy khiến tôi giật bắn người, suýt chút nữa miệng bật ra tiếng la hoảng.
Đứng cạnh giếng là một con nhỏ lạ hoắc. Nó mặc bộ đồ bông, da ngăm đen, tóc ngắn ngang vai. Trông bộ dạng của nó, tôi đoán nó trạc cỡ tuổi tôi hoặc nhỏ hơn tôi một, hai tuổi gì đó. Sự xuất hiện bất thần của nó khiến tôi bàng hoàng tự hỏi không biết từ lúc nào và bằng cách nào nó lọt được và khu vườn của tôi.
Lúc đầu tôi nghi nó là ăn trộm nhưng sau khi âm thầm quan sát một hồi, tôi biết là không phải. Một tên trộm thì cặp mắt phải láo liên, cử chỉ phải vụng trộm và hành động luôn luôn lén lút nhưng ở con nhỏ này tất cả đều ngược lại. Chẳng tỏ vẻ gì vội vã, nó đi quanh quẩn bên những gốc cây bằng những bước chân thong thả, chốc chốc lại ngước mắt nhìn lên những vòm lá trên cao khiến tôi cứ tưởng nó định trèo lên hái trộm mận. Nhưng rồi nó lại cúi đầu xuống dòm dáo dác như định tìm kiếm một cái gì đó trong cỏ.
Tôi vẫn đứng lặng lẽ sau bụi cây, nín thở theo dõi những hành động lạ lùng của nhân vật bí ẩn kia. Bây giờ nó lại đi lòng vòng quanh giếng. Đang đi, thình lình nó dừng lại và cúi xuống nhặt cái gì đó dưới đất. Khi nó đứng lên, tôi căng mắt cố nhìn xem cái vật nó vừa nhặt là khối vàng hay khối kim cương. Hóa ra đó chỉ là một chiếc lá vàng.
Con nhỏ cầm chiếc lá đi lại bên giếng đá và thả xuống. Rồi bám hai tay vào thành giếng, mắt đăm đăm nhìn ngắm chiếc lá đang bập bềnh dưới kia, nó cứ đứng hoài như vậy. Mặc dù đứng cách con nhỏ một quãng khá xa, tôi vẫn có thể nhìn thấy vẻ thích thú trên khuôn mặt ngăm ngăm của nó. Và tôi cũng hình dung ra chiếc lá nó vừa thả trong lòng giếng lúc này hẳn đang bềnh bồng trên mặt nước hệt như một chiếc thuyền câu. Đã mấy lần tôi định dợm châm chạy lại đứng bên cạnh nó, dòm xuống giếng, xem thử chiếc lá chìm nổi thế nào. Ý muốn đó cứ trào lên trong lòng, thôi thúc mãnh liệt đến mức phải hết sức vất vả tôi mới ghìm lại được.
Nhưng niềm vui của con nhỏ không kéo dài được lâu. Trong khi nó đang ngẩn ngơ thả hồn theo chiếc lá thì con sáo của tôi thình lình phá đám. Con sáo chắc ngủ mê từ nãy đến giờ, bỗng thức dậy thấy người, liền la hoảng “có khách, có khách”. Nghe tiếng kêu thất thanh, con nhỏ choàng tỉnh khỏi giấc mơ, ù té chạy. Tôi chưa kịp can thiệp thì nó đã vọt tới sát hàng rào cạnh con hẻm, vẹt một lỗ hổng, chui ra. Cho đến khi tôi đuổi kịp tới hàng rào thì nó đã biến mất.
Đứng ngẩn ngơ một hồi, chẳng biết làm gì, tôi ngồi xuống tò mò quan sát chỗ hàng rào con nhỏ vừa chui qua. Hóa ra chỗ này thiếu một cây cọc. Muốn vào vườn, người ta chỉ cần nới rộng hai sợi kẽm gai chăng ngang rồi vẹt bụi dây leo lòa xòa là lọt vào được ngay.
Nhưng việc phát hiện ra lối đi bí mật đó không khiến tôi ngạc nhiên bằng việc tại sao con nhỏ kia có thể nhìn thấy cái lỗ hổng bị dây leo phủ kín như thế và nó chui vào khu vườn của tôi để làm gì.
Từ đó cho đến tận khi trời chập choạng tối, tôi ngồi thẫn thờ trong bóng chiều, lòng miên man nghĩ tới nhân vật lạ lùng nọ. Hàng trăm câu hỏi thi nhau mọc ra trong đầu tôi và tôi chẳng trả lời được câu hỏi nào. Tôi không thể nào biết nó là ai và từ đâu đến. Lúc nãy, nếu bất thần chạy vụt ra, tôi có thể làm cho nó hốt hoảng và thừa cơ tóm được nó. Và dĩ nhiên, tôi sẽ vén màn bị mật được ngay. Nhưng thú thật, lúc đó tôi không muốn làm cho nó sợ hãi. Không hiểu sao tôi không cảm thấy ghét nó mặc dù nó dám xâm nhập lén lút vào lãnh địa của tôi. Ngược lại, tôi cảm giác tôi có thiện cảm với nó nữa là khác. Có lẽ do tôi nhìn thấy ở nó có nhiều điểm giống tôi. Cũng đi thơ thơ thẩn thẩn quanh các gốc cây như một tên lãng tử. Cũng nhìn khu vườn bằng ánh mắt thân thiện và ấm áp như nhìn một người bạn. Cũng vẩn vơ nhặt một chiếc lá vàng thả vào lòng giếng rồi đứng ngắm hàng giờ không biết chán. Tôi chỉ khác nó một điểm là tôi biết những tiếng “có khách, có khách” vang lên thất thanh kia là tiếng chim chứ không phải tiếng người và vì vậy tôi không có sợ vãi mật ra như nó.
Tối đó, tôi kể cho anh Khánh nghe câu chuyện vừa xảy ra ngoài vườn. Nghe xong, anh rụt cổ:
- Vậy đích thị là ma rồi!
Tôi bĩu môi:
- Ma đâu mà ma! Ma mà chui hàng rào!
- Nó thích chui thì nó chui, ai cấm được!
- Xì, nói vậy mà cũng nói! Giờ đó không thể nào có ma được. Em từng sống dưới quê em biết, ma chỉ xuất hiện lúc mười hai giờ trưa và mười hai giờ khuya thôi.
- Chứ lúc con nhỏ đó xuất hiện là mấy giờ?
- Khoảng bốn giờ.
- Vậy thì nó là ăn trộm! – Anh Khánh khẳng định.
- Không phải đâu! – Tôi kêu lên.
Anh Khánh nheo mắt ngó tôi:
- Sao mày biết là không phải?
- Sao không biết! Nếu ăn trộm thì nó phải lấy trộm cái gì chứ! Ở đây nó chỉ nhặt lá thả xuống giếng thôi!
Nói xong, tôi ngạc nhiên nhận ra mình đã bênh vực cho con nhỏ kia một cách hăng hái. Những điều tôi nói không thuyết phục đuợc anh Khánh. Anh hừ giọng:
- Mày ngu quá! Không có ai khùng đến mức chui vào vườn người ta chỉ để nhặt lá thả xuống giếng chơi cho vui. Đích thị nó là ăn trộm. Nó chỉ làm bộ như vậy để đánh lừa mày thôi.
Tôi phản đối:
- Nó có đánh lừa gì em đâu?
Anh Khánh nhìn tôI bằng ánh mắt thương hại:
- Hóa ra đến giờ mày vẫn chưa biết là mày bị lừa! Con nhỏ đó nó giả bộ khùng khùng để rủi mày có bắt gặp nó ở trong vườn mày sẽ không nghĩ nó là kẻ gian, còn nếu như mày không trông thấy nó hoặc nó không bị con sáo làm cho hoảng sợ thì trước sau gì nó cũng mò vào tận trong nhà để đánh cắp một vài món gì đó.
Lời giải thích của anh Khánh chắc nịch như đinh đóng cột. Nghe anh nói, tôi có cảm tưởng như con nhỏ đó đã từng vào nhà tôi ăn cắp mấy lần rồi. Thấy vì cái tật bép xép của mình mà nó bị gán cho tội ăn trộm, tự nhiên tôi thấy tội nghiệp...