kháng cự. Người quẫy, chân đạp. Bàn tay anh bấm cò ba lần. Những tiếng súng quất vào bầu không gian xung quanh. Những tiếng vọng lan trên đảo, những viên đạn chỉ lao vút vào không khí, vô hiệu quả. Chúng không tìm thấy mục tiêu.
Jerry Flint sặc sụa. Sợi xích sắt siết tới mỗi lúc một chặt hơn. Đã từ lâu Jerry không còn thở được nữa. Những chuyển động của anh yếu đi, chậm dần, sau đó ngưng hẳn. Lực siết của đoạn xích sắt trên cổ anh vẫn không giảm xuống.
Một bức tranh khủng khiếp, kỳ quái: thân hình hết sức sống của Jerry Flint bị kéo xềnh xệch như một bó giẻ trên nền đá, phần vai trên như được treo vào không khí. Người ta hoàn toàn không nhìn thấy lũ đàn ông tóm lấy anh kéo đi. Lũ người vô hình kéo Jerry Flint vào tới lô cốt đổ bê tông. Khi bọn
chúng tới nơi thì chàng thám tử đã chết rồi.
Trên đời này tất nhiên có những căn tin biết cách nấu ăn. Nhưng căn tin của Scotland Yard không phải thuộc lọai đó. Ít nhất là đối với John Singlair. Chàng chánh thanh tra trẻ tuổi này đâu phải thứ công tử quen được nuông chiều, thế nhưng cái thực trạng muốn ăn thịt bò rán phải vác cả cưa theo nhiều khi khiến người ta ngán ngẩm. Vậy là anh để món thịt đứng đó và quay lại với hũ sữa chua mùi dâu đất. John đâu có cần ăn kiêng để đề phòng bệnh béo phì, vậy mà cứ thỉnh thoảng lại bị đẩy vào cảnh sống cả ngày bằng sữa chua và rau trái. Rõ là chuyện khó hiểu!
Chàng thanh tra đã dành trọn buổi sáng hôm nay cho việc nghiên cứu hồ sơ cũ. Vụ án gần đây nhất vẫn còn đẻ tiếp một vài công việc cần hoàn tất. Quán đếm của những con ma cà rồng mặc dù đã bị đóng cửa, thế nhưng núi báo cáo và giấy tờ kèm theo nó khiến John Singlair đau đầu còn hơn cả cuộc truy lùng đám quỷ hút máu kia. Một cuộc phiêu lưu mới vẫn chưa mở ra. Và John rất mừng vì đều này. Ba ngày nữa anh muốn ra phi trường đón đôi bạn Suko và Bill Connolly. Cả hai người vừa qua một chuyến du lịch mạo hiểm vào vùng núi Himalaya, và John đang rất nóng lòng muốn biết họ đã gặp gỡ những chuyện gì ở đó.
John Singlair có bí danh là Thợ Săn Ma. Một bí danh hoàn toàn có căn cứ. Chàng thanh tra tóc vàng quan tâm đến những vụ án nằm ngoài ranh giới của cuộc sống bình thường. Anh được cần tới khi những người khác không tiến bước được nữa, những công cụ thường ngày tỏ ra bất lực. Khi cuộc chiến chống lại những con ma cà rồng, những người sói hoặc các loại ma quỷ khác bắt đầu là lúc John vào cuộc. Và cho tới nay, tỷ lệ giải án của anh khiến cho không ít đồng nghiệp của anh phát ghen.
Anh chàng John tội nghiệp vừa tức tối nhìn món thịt bò rán dai hơn cao su trước mặt vừa múc thìa vào hũ sữa chua thứ hai. Thế rồi anh châm cho mình một điếu thuốc lá, để thúc đẩy cái gọi là “quá trình tiêu hóa” của một bữa ăn hoàn toàn không có mỡ.
Bồi bàn đến dọn dẹp. Cô ta là người mới, và cô ta mỉm cười với John. Chàng thợ săn ma mỉm cười đáp trả. Khi cô gái tóc vàng quay đi, cái bím tóc hình đuôi ngựa lúc lắc một cách nghịch ngợm. Chàng thợ săn ma ném theo cô gái một cái nhìn nữa, rồi dụi thuốc lá.
Tiếng loa đột ngột vang lên, chui vào từng ngóc ngách căn tin.
“Mời chánh thanh tra John Singlair tới gặp chỉ huy trưởng Powell. Mời chánh thanh tra Singlair tới gặp chỉ huy trưởng Powell…” -Lại nữa rồi. – John lầm bầm. – Giữa giờ nghỉ trưa cũng chẳng cho người ta yên thân.
Anh đi về hướng thang máy.
Đầu tiên, John đi lên phòng làm việc của anh, phủ áo khoác lên vai rồi mới lên đường tới phòng sếp.
Powell không ở một mình. Người đàn ông ngồi cạnh ông có khuôn mặt một con chuột đồng sầu não và ánh mắt rắn như thép của diễn viên Franco Nero. Một hỗn hợp kỳ lạ. Ngoài ra người đó chỉ cao khoảng chừng một mét sáu mươi. Oâng ta có mái tóc bạc chẻ đôi thẳng tắp và mặc một bộ complé màu xám. Oâng ta nhìn chàng thanh tra vừa bước vào như một con rắn nhìn con thỏ mà chẳng bao lâu nữa nó sẽ nuốt chửng.
Chàng thợ săn ma đóng cửa lại.
Chỉ huy trưởng Powell ngồi đằng sau bàn viế, giơ tay chỉ vào một chiếc ghế.
-Mời anh ngồi, John!
-Cảm ơn. – Chàng thợ săn ma ngồi xuống.
Powell hướng về phía gã đàn ông lùn tịt mang bộ điệu cáu kỉnh.
- Cho phép tôi giới thiệu, đây là đại tá Ryker. Đại tá là người của Dịch Vụ Bảo An và đến với chúng ta vì một nhiệm vụ đặc biệt.
John Singlair gật đầu về phía vị khách. Anh không mấy ưa đám người trong phe tình báo. Thường họ là những kẻ kiêu căng, và những ai phải làm việc chung với họ luôn phải chịu đựng cảm giác bị kẻ khác nhìn bằng nửa con mắt. Ông đại tá bất chấp chiều dài cơ thể rất khiêm tốn kia, hay õ lẽ chính bởi nó rõ ràng cũng là một thành viên của lũ dân vênh váo.
-Xin mời ông, đại tá! – Chỉ huy trưởng Powell lên tiếng.
Người của phe tình báo gật đầu. Ông ta bắt đầu nói, giọng có âm lượng rất lớn tràn ngập tòan bộ căn phòng.
-Đầu tiên tôi xin nhắc nhở rằng tất cả những gì được nói ra ở đây tuyệt đối chỉ dành riêng cho ba người này và không được phép lộ ra với công luận. Suy cho cùng, đây là vụ án có tầm quan trọng đặc biệt…
-Ông cho phép tôi ngắt lời ông nhé?
Đại tá Ryker bối rối nhăn trán. Chắc ông ta không quen thấy có kẻ giám ngắt lời mình.
-Vâng, xin mời.
John bất giác mỉm cười. Anh biết quá rõ sếp của mình. Bản thân chỉ huy trưởng cũng là một cái đầu cứng ngang đá hoa cương, nhưng một khi có kẻ dám tỏ ra nghi ngờ phẩm chất đạo đức nhân viên của ông thì Powell sẽ dữ giằn như một con hổ chúa.
- Chánh thanh tra John Singlair là một người tuyệt đối đáng tin cậy, đại tá! – Ông nói. – Anh ấy đã chứng minh điều đó không chỉ một lần. Tôi nói như vậy để ở đây khỏi xảy ra chuyện nghi ngờ không cần thiết.
Viên đại tá cố làm điệu bộ thẳng người lên như một cây nến.
- Tôi hiểu rồi, thưa quý ngài!
Và ông đại tá bắt đầu thật. Có lẽ người đàm ông này rất thích mình được nói. Ông ta lấy đà thật dài, kể lan man về một tay nào đó tên Basil Proctor. Ông ta kể cuộc đời của người đàn ông đó, miêu tả quyền lực kinh tế của ông ta, rồi cuối cùng mới có hành động bán doanh nghiệp đã gây ra một làn sóng ngạc nhiên trong thế giới tài chính.
- Tay Basil Proctor đó đã mua một hòn đảo, và đã cho xây dựng kiên cố như bảo vệ một núi vàng. Gã xây ở đó một lô cốt bằng bê tông cùng rất nhiều hệ thống canh chừng. Dĩ nhiên người trong Dịch Vụ Bảo An của chúng tôi nghi ngờ. Suy cho cùng, chuyện một người tự nhiên bán tất cả những cơ sở của mình rồi rút lui về Đại Tây Dương là chuyện bất bình thường. Thám tử của chúng tôi, người trước đó đã quan sát Basil Proctor, được lệnh đẩy mạnh cường độ điều tra. Jerry Flint cuối cùng đã quyết định đến hòn đảo đó để quan sát hiện trường. Anh ta cũng đã đế nơi, nhưng rồi mọi việc kết thúc. Cho đến nay chúng tôi không nghe một tin nào nữa của anh ấy. Bản báo cáo cuối cùng qua đường dây vô tuyến truyền về trạm thu sóng của chúng tôi đã được giải mã. Tôi có mang nó theo đây.
Đại tá Ryker cúi người xuống, mở khóa chiếc cặp hồ sơ đựng bên cạnh. Rồi ông ta rút ra tờ giấy A4 và đưa cho đồng nghiệp.
John Singlair và Powell bắt đầu đọc.
Quả thật là một bản báo cáo thú vị. Anh chàng Flint đó kể về một cái đầu lâu khổng lồ, trôi bồng bềnh trên hòn đảo, có một chiếc máy bay trực thăng đã bay vào trong mõm nó. Anh ta không tìm được lời giải thích và chính vì vậy mới càng nôn nóng muốn lên đảo để quan sát tận nơi.
John hạ tờ giấy xuống.
- Như đã nói. – Ryker tiếp tục cất tiếng. – Sau đó chúng tôi không hề nhận được tin của Jerry Flint. – Ông ta lại đưa về phía chỉ huy trưởng Powell một tấm ảnh của Jerry Flint.
Powell đặt tờ giấy xuống mặt bàn.
- Và bây giờ thì ông cần sự giúp đỡ của chúng tôi?
Đại tá nhăn mặt.
-Trợ giúp có lẽ không phải là khái niệm thật sự chính xác…
Powell nở một nụ cười chua ngọt.
- Bản thân tôi cũng biết, các cơ quan tình báo luôn có những thanh tra tốt nhất thế giới này. Nhưng ta nói chuyện cụ thể: ông muốn biết điều gì? Hay nói một cách khác, ông đến chỗ chúng tôi nhằm mục đích gì?
- Ông đại tá đối diện oằn người né tránh như một con giun vừa chui ra khỏi lỗ.
- Chuyện này không dễ giải thích. – Ông ta nói. – Mới nghe bản báo cáo thì người ta cũng có thể cho đây là hình ảnh tưởng tượng của một anh chàng ba hoa. Một cái đầu lâu khổng lồ…làm gì có chuyện đó! Nhưng mặt khác thì Jerry Flint rất được chúng tôi tin tưởng. Chúng tôi thật sự không cho rằng anh ta nói dối. Bởi bộ phận của ngài, thưa ông Powell, là chuyên gia cho những vụ án bất thường, nên cấp chỉ huy cao nhất đã trao nhiệm vụ cho tôi mời quý ngài cùng cộng tác.
Giờ đến lượt John Singlair lên tiếng.
- Có phải như thế nghĩa là tôi cần phải làm việc chung với các nhân viên của ngài?
- Vâng.
- Tôi xin lỗi. – John lắc đầu. Vậy thì tôi đứng ngoài vụ này.
- Ông không thể làm như thế được. – Đại tá Ryker nổi khùng. – Nếu tôi nói với ông rằng…
- Ông không có quyền nói gì với tôi cả, thưa ông. – Chàng thợ săn ma bình tĩnh đáp trả. – Tôi chỉ nhận nhiệm vụ từ thủ trưởng trực tiếp của mình. Người đó là chỉ huy trưởng Powell. Chỉ khi ông ấy cho việc này là đúng đắn, tôi mới tham gia.
Ngón trỏ trên bàn tay phải của viên đại tá chồm về phía trước như móng của một con diều hâu.
- Ông nói cho anh ta nghe đi!
Chỉ huy trưởng Powell nhún vai. Màn kịch của ông và John đang thành công tuyệt hảo.
- Ông thấy đấy, ông đại tá, chánh thanh tra Singlair là nhân viên tốt nhất của tôi. Anh ấy đạt tỷ lệ phá án 100%, đó là điều mà ta không thể khẳng định đối với nhân iên Dịch Vụ Bảo An. – Powell đưa một bàn tay lên khi thấy đại tá Ryker tỏ ý phản đối. – Tôi biết tôi đang nói gì, ngài đại tá! Các ông đã không ít lần phải nuốt thất bại. Nhưng đó chỉ là chuyện pgụ. Còn bây giờ, nếu chánh thanh tra Singlair tỏ rõ ý muốn làm việc một mình, thì tôi phải chấp nhận ý kiến đó thôi. Chắc anh ấy sẽ có những lý do riêng.
- Ra thế, quỷ thật! – Đại tá nói. – Chẳng lẽ anh ta là siêu nhân?
- Không, nhưng là một chuyên gia. Mà ngoài ra thì chính ông là người đến chỗ chúng tôi và cầu mong viện trợ. Ta muốn chơi bài ngửa với nhau và gọi sự việc đúng tên.
Người đại tá thở phì ra.
- Thôi được, tôi chấp hành yêu cầu của phía ông, nhưng hoàn toàn không phục.
- Chuyện đó đối với tôi không quan trọng. Powell khô khan đáp. Ông gỡ kính xuống, rút một chiệc khăn lau hai mặt kính, rồi nói tiếp. – Chúng tôi có được phép biết chi tiết không? Ý tôi muốn nói, hòn đảo này nằm cụ thể ở đâu và chánh thanh tra Singlair làm thế nào đề đến được nơi đó một cách tốt nhất? Người ta có thể chọn điểm xuất phát ở đâu?
- Đáng tiếc là tôi hoàn toàn không thể cung cấp dữ liệu cho quý ngài. – Đại tá Ryker đáp. – Mặc dù chúng tôi có đầy đủ thông tin về Basil Porctor, nhưng tất cả chỉ là những chi tiết vào khoảng thời gian ông ta bán doanh nghiệp. Chúng tôi không biết hiện ông ta đang theo đuổi mục đích gì. Đó chính là điều mà Jerry Flint muốn tìm ra.
- Còn có người nào khác quan hệ với Basil Porctor không? – John Singlair hỏi.
- Không. Gã ta bán đi tất cả, chỉ trừ một biệt thự ở gần Plymouth.
John gật đầu.
- Plymouth nằm cạnh bờ biển Cornwall. Có lẽ nó còn một mối liên hệ.
Powell đồng tình.
- Rất có thể.
Đại tá Ryker đứng dậy.
- Thưa quý ngài, tôi nghĩ vậy là tôi đã nói tất cả. Chúng ta sẽ liên lạc thường xuyên với nhau chứ?
Powell gật mạnh.
- Dĩ nhiên!
- Chúc thành công. – Ryker nói tiếp. Rồi ông đi ra cửa.
- Ph…phù!!! – John thở phì ra khi anh chàng tình báo đã khất bóng. – Rõ là một định kiến xa xưa nhưng hoàn toàn có lý. Bọn con trai này còn kiêu ngạo cho tới chết. Lúc nào chúng nó cũng tự cho mình là kẻ vĩ đại nhất.
- Thôi, bỏ đi. – Chỉ huy trưởng phẩy tay. – Ta quan tâm đến vụ án. Anh có tin đằng sau nó có chuyện gì tầm cỡ không?
John cẩn thận phát biểu.
- Tôi nghĩ có thể. Cái đầu lâu khổng lồ kia không thể do Jerry Flint bịa ra. Hơn nữa, anh đã mất tích. Nếu không thì chắc chắn cơ quan của anh đã nhận được tin rồi.
- Đúng, anh có lý. – Powell uống cạn cốc nước của mình. – Nếu tôi không lầm thì anh sẽ về Plymouth ngay ngay hôm nay, đúng không?
- Ông không lầm đâu, thưa ngài chỉ huy. Tôi sẽ đến ngôi nhà đó. Rất có thể tôi sẽ tìm được ở đó dấu vết đầu tiên.
- Tốt. Chúc may mắn!. – Powell cười, một chuyện rất hiếm khi xảy ra. Trò cãi vã với tay đại tá vừa rồi chắc chắn là một niềm vui không nhỏ.
John Singlair không thể không thông cảm với ông.
Mười phút sau, anh đã đứng trong tầng nhà để xe của Scotland Yard, nơi có chiếc Bentley đang đậu. Chiếc xe ánh bạc đang chờ được đưa ra ngoài. John Singlair quyết định chiều chuộng nó.
Đầu tiên, anh lái xe về căn hộ của mình. Chàng thợ săn ma không muốn tay không vào cuộc chiến. Có một số đồ vật mà anh cần đến bằng mọi giá, bởi ma quỷ không thể bị hủy diệt bằng súng đạn bình thường…
Mặc dù vậy, John Singlair vẫn thầm coi vụ này không có gì đặc biệt. Anh thậm chí tính còn tính toán đến khả năng sẽ gặp một tay triệu phú có tính kỳ quặc, người sẵn sàng vì một ý thích điên khùng bất chợt nào đó mà hành động chẳng giống ai.
Chẳng mấy khi chàng thợ săn ma lại nhầm lẫn trầm trọng đến thế…
Như đã bị thôi miên, Adam Preston và hai cặp vợ chồng nhìn trân trối vào cánh cửa nặng nề. Hiện thởi họ vẫn chưa nhận ra những dáng hình nọ, bởi không gian nằm phía bên kia cánh cửa hoàn toàn chìm trong bóng tối.
Thế rồi, như một ngọn đòn giáng xuống cuộc đời họ!
Basil Proctor ngồi trong một chiếc ghế lăn. Những bánh xe bằng cao su êm ái quay trên nền đất. Chiếc ghế được trang bị một động cơ chạy điện, tiếng rù rì nhè nhẹ của nó là âm thanh duy nhất vang lên trong bầu không khí tĩnh lặng đến ngộp thở.
Basil Proctor hãm xe. Ông chúa của hòn đảo này có một ngoại hình thật tởm lợm. Đó là một người tàn phế. Một thân xác nhăn nhúm nhét trong ghế lăn. Cái đầu ngoẹo hẳn sang một bên, vai trái trễ sâu xuống dưới. Những đường nét trên khuôn mặt người đàn ông đó bị biến dạng hoàn toàn. Làn da phủ đầy những vết sẹo to bằng đồng xu, khuôn đầu trọc lóc không môt sợi tóc, đôi mắt ánh lên ngôn lửa của quỷ Satan. Phủ lên trên đôi chân là một lớp chăn dài màu xám, chạm đất.
Linda Grey thốt lên một tiếng kêu nhẹ khi nhìn thấy người đàn ông đó. Adam Preston hít một hơi thật sâu.
Ra đó là ông chủ bí hiểm của họ đây.
Một kẻ tàn phế kinh khiếp chưa từng thấy!
Adam Preston nhớ lại là anh đã từng nhìn thấy ảnh của con người này. Trên bức ảnh đó Basil Proctor là một người đàn ông cao lớn, đẹp trai.
Có lẽ Basil Porctor đang đọc được suy nghĩ trong đầu Adam Preston, ông ta nói:
- Đúng thế, trước đây trông ta khác hẳn, anh bạn Preston thân mến. Nhưng rồi ta sẽ quay trở lại với ngoại hình cũ. Chính vì việc đó mà ta đã cho đưa các bạn về đây. – Người đàn ông nhìn mặt từng người đối diện. Aùnh mắt ông ta dừng lại lâu hơn ở hai người đàn bà. – Thế rồi ông ta gật đầu. – Đòn thủy thủ chắc sẽ rất mừng vì có thêm phụ nữ. Trên tàu hiện nay chưa có ai thuộc giới nữ. – Rồi ông ta cười bằng cái giọng khàn khàn khùng khục.
Adam Preston ném một cái nhìn thật nhanh về phía hai người đàn ông còn lại. Họ đang đứng đó, đờ đẫn vì kinh hãi. Không một ai giám bước về phía Basil Proctor.
Chỉ trừ Adam Preston. Anh ta mạnh dạn tiến lên phía trước một bước, đứng rất sát cái ghế lăn. Mặt anh ta đỏ bừng lên. Với một nếp nhăn khinh thị quanh khuôn miệng, người đàn ông nhìn xuống bộ mặt tay triệu phú.
- Ông Proctor, – anh ta nói, – chẳng lẽ ông tin rằng lũ chúng tôi sẽ ở lại trên hòn đảo này của ông? Máy bay vẫn còn đứng trên nóc nhà. Chỉ vài phút nữa là phi công sẽ đưa chúng tôi ra khỏi đây và chẳng một ai ngăn được chúng tôi. Cả ông cũng không!
- Đó cũng là ý kiến của tôi. – Cliff Kelland lên tiếng. – Chúng tôi không ở lại đây thêm một phút nào nữa đâu. – Người đàn ông thả tay vợ ra và bước lên đứng cùng Adam Preston khi Nathan Grey còn chần chừ.
Proctor cười phá lên.
- Những thằng ngu. Gã gào to. – Dĩ nhiên là bọn mi sẽ rời đảo như không phải theo cái kiểu mà bọn mi nghĩ đâu. Còn ciếc trực thăng? Mở tai mà nghe kỹ đi. Có lẽ bọn mi sẽ thấy tiếng nó đang cất cánh.
Adam Preston đột nhiên trở nên bối rối. Giống như những người khác, anh nhìn trân trối lên nóc phòng. Đung như vậy. Họ đang nghe văng vẳng tiếng cách quạt trực thăng đang bay.
Khuôn mặt Adam Preston nhăn lại. Anh nắm chặt hai nắm đấm, trông như sẵn sàng nhảy xổ vào Basil Proctor bất cứ lúc nào. Người đàn ông cố giữ bình tĩnh.
- Vậy thì bản thân ông phải đưa chúng tôi ra khỏi chỗ này! – Anh kêu lên.
- Không có chuyện đó. – Proctor giơ tay phải lên và búng hai ngón tay rất dài, gầy gò như tay nhện. Lập tức có tiếng bước chân vang lên.
Thế rồi từ trong bóng tối của căn phòng đằng sau Proctor hiện ra một gã đàn ông. Trông gã giống như một người Ả Rập. Ít nhất thì chiếc khăn trên đầu hắn cũng được quấn theo kiểu Ả Rập. Gã mặc một áo choàng thật dài, phủ sát đất, trông hơi giống áo liệm người chết. Khuôn mặt cứng đờ vô cảm như được làm bằng đá hoa cương, nhưng cấy súng tự động trong hai bàn tay mạnh khỏe lại ngầm nói một thứ ngôn ngữ rất rõ ràng.
- Đây là Ali. – Basil Proctor giới thiệu. – Anh ta sẽ lo lắng sao cho bọn mi ở lại trên hòn đảo này. Ít nhất là tong thời gian tới.
Adam Preston lùi một bước. Khẩu Mpi trong bàn tay người Ả Rập khiến anh kính nể.
- Thì ra ông muốn giữ chúng tôi ở lại đây bằng vũ khí? – Nathan Grey thốt lên.
Cô vợ Linda của anh bắt đầu khóc.
Basil Proctor không phủ nhận.
- Đúng thế. – Gã đáp. – Đâu có khác được. Bọn mi định chạy trốn, mà đó là điều ta không thể chấp nhận.
- Tại sao ông lại cho gọi bạn tôi về đây? – Adam Preston hỏi.
Basil Proctor giơ cả hai cánh tay.
- Ta muốn có một đoàn thủy thủ.
- Chúng tôi không phải thủy thủ.
- Ta biết…
Adam Preston nhăn trán.
- Thế thì tôi không hiểu, ông nhận chúng tôi để làm gì? Nếu điều khiển một con tàu, người ta cần những thủy thủ dày dạn kinh nghiệm…
Basil Proctor cáu kỉnh vẩy ta.
- Vớ vẩn. – Gã nói. – Bọn mi đâu phải đi biển cho ta.
- Thế thì cho ai?
- Thuyền trưởng Barell!
Hai con mắt Adam Preston nheo lại thành hai vệt nhỏ.
- Barell…Barell. – Anh lẩm bẩm. Không biết tôi đã nghe cái tên này ở đâu rồi thì phải.
- Có phải đó là người đàn ông có con tàu đã bị...