hai thứ quí báu ấy cuộc đời dễ tẻ dễ chán lắm, và, mỗi lần phải xông pha những cuộc khó khăn để đạt tới công danh hay phú quí, thì không làm gì có sự khuyến khích thiết tha tâm trí để bền lòng gắng sức tiến lên.
Trong đời kẻ anh hùng, đem toàn thân thờ một quan niệm siêu quần, có lẽ vợ con là một điều trở ngại cho chí khí. Nhưng trong đời một kẻ sống một cách tầm thường bình dị thì sự thiếu vợ con quả là một nỗi buồn rầu, một động lực làm trở ngại sự tấn tới trên đường sinh hoạt.
Bới thế, đối với Thủy, tôi thấy ngay rằng anh đem vợ con cùng ra ở Đồng Giao là một điều chí lý, dẫu rằng khí hậu thủy thổ ở đất này không được lành như ở đồng bằng. Song le, vì anh khéo giữ gìn, ăn ở đúng phép vệ sinh, nên cả nhà anh ít bị Ốm đau quặt quẹo; vợ con anh trông đều khỏe mạnh cả, không đến nỗi mặt bủng da chì như phần nhiều dân ở nước
độc rừng thiêng.
Cơm nước xong, cả hai vợ chồng bạn và đứa con thơ theo gót tôi cùng lại sập gụ Ở góc phòng, bốn chúng tôi quây quần chung quanh bàn đèn, nói chuyện với nhau như họp chợ. Lệ Thi tự tay rót nước lọc ra ấm, đặt lên đèn cồn, đun một ấm nước sôị Rồi lại tự tay nàng lấy cốc lấy đường, pha cho hai anh em tôi mỗi người một cốc cà phê rõ đặc.
- Hút thuốc phiện có hãm cà phê đắng mới thú vị, em nghe cậu em ngày trước vẫn nói như vậỵ Ở đây tuy có cà phê nhưng tự rang lấy không được ngon lắm, bởi thế thứ cà phê này, em phải gửi mua từ Hà Nội xuống đâỵ Nhà em uống quen rồi, cứ gần hết em lại vội nhắn mua cho kỳ được, nếu không cn nghiện ông ấy lên, ông ấy ray rứt cho đến khổ! Ấyy nghiện cà phê còn như thế, nghiện thuốc thì đến thế nàỏ … Nhưng mà … anh thử uống xem có phải đúng Moka hảo hạng đó không?
Hôm đó thực là ngày hộị Nào là Lệ Thi, nào cháu Thu Nhi, nào Thủy, nào tôi, cứ cướp lời nhau mà nói, nói đến chỗ vui quá lại cười ầm lên. Tôi hút bữa thuốc phiện đêm ấy sao mà không thấy đủ, dẫu rằng thứ tôi hút là một thứ “thuốc Mẹo” cũ kỹ đã có váng mốc, mà bạn tôi đem tự Lào về rồi giấu đi để dành cho tôi đã hơn một năm naỵ Thì ra vừa hút vừa nói, thuốc phiện đi đâu mất hết. Tôi cứ nằm dài hút mãi, tiêm xong lại hút, hút lại tiêm, không có ai là bạn “đối hấp” cả.
Lệ Thi nói chuyện chán quay vào quấy nhiễu bàn đèn, đòi tiêm cho tôi hút. Thủy vội vàng gạt đi, nhưng tôi lại chiều ý, đến nỗi thuốc phiện rơi vãi ra khay tứ tung nhoe nhoét, dính hàng tảng vào nhĩ tẩu, và rỏ xuống tắt cả đèn. Có đến thế nàng mới chiu thôi, dắc con đi ngủ. Chỉ còn hai anh em chúng tôi nằm đối diện nhau cạnh bàn thờ Phù dung nữ chúa mà thóị Thủy đứng dậy bỏ màn xuống cho đỡ muỗị
Đêm lúc ấy đã khuyạ Chim rừng queng quéc báo hiệu đầu giờ Tý. Bạn và tôi buổi này không đàm đạo nữa, cùng nằm yên hưởng thú tinh mịch của canh trường. Chúng tôi hiểu rằng nói chuyện với nhau vô ích; đã là đôi bạn tri giao thân thiết, thì nhiều khi kề bên nhau cũng đủ rồị Chúng tôi được gần kề nhau được thấy mặt nhau, còn gì sung sướng khoan khoái hơn nữả Tội gì đem lời nói phá tan sự khoan khoái ấy đị Trong cái êm đềm quạnh quẽ, tình thân yêu qui mến còn nồng nàn hơn lúc nói cườị Có biết nằm yên để lẳng lặng nhìn nhau, đó mới thực là tương ái đến tột điểm. Mà có khi lại không cần nhìn nhau nữa; mỗi người nhắm mắt mơ màng một lối , miễn là đều có tín ngưỡng rằng cả hai cùng được gần nhaụ Thế là đủ, trong tất cả cuộc đời thân thiện của Thủy và tôi, chúng tôi tương tri nhau ở chỗ ấy hơn cả.
Tôi bấy giờ mới thấy thuốc Mẹo thấm vào gân cốt, trong người nhẹ nhàng êm ái, say sa một cách rất dịu dàng, chỉ muốn lơ mơ nằm điềm tĩnh bên khay đèn mãi mãi, đừng bao giờ phải dậy nữạ
Thực là một thú vị ngây ngất, êm đềm và huyền ảo , không tài nào tả rõ được. Trong lúc bàng hoàng, yên chí rằng có bạn ở bên cạnh, và cũng đương trầm ngâm mơ mộng như mình, tôi cứ yên lặng nghĩ quanh nghĩ quẩn hết xa đến gần, thức cũng không phải thức, mà ngủ thì không ngủ được, linh hồn nửa tỉnh nửa mê, phiêu diêu phảng phất, đi sâu vào cỏi Yên Hà. Bất giác tôi nghĩ đến đôi câu đối khắc trên yên dọc tẩu của tôi, tôi bèn ngâm váng lên một cách rất tự nhiên, nhưng thực quả là vô lý.
Cao ngọa gia san, hô hấp vân yên hàm bán tháp;
Ấn cư cầu chí, trù mâu phong vũ đối cô đăng …
Bạn tôi có lẽ đương lim dim ngủ, giật mình tỉnh dậỵ Nhìn đồng hồ, bấy giờ vào khoảng hơn một giờ đêm, đầu giờ sửụ Thủy với tay lấy cốc cà phê, ghé lên mồm uống một hớp nhỏ. Tiếng cùi dĩa sắt đụng vào thành cốc leng keng.
Liền lúc ấy, xa lắm, xa lắm, tôi thoáng nghe tiếng đờn ca não nuột. Tôi lắng tai chú ý. Im lặng. Chỉ có tiếng mưa tuôn rả rích, tiếng gió phả vì vèo, tiếng trùng than dế khóc, và chốc chốc, tiếng một con chim rừng kêu quạc quạc trên ngàn. Tôi lại ngả đầu xuống gốị
Bỗng đâu, một nhịp đàn hát lại văng vẳng lọt vào tai tôi, nhỏ lắm, xa lắm, tưởng chừng ở cõi vô hình đưa lạị Dưới mãnh lực của Phù dung, xúc động hết giác quan của tôi khi say khói, tai tôi nghe thính một cách lạ thường. Tôi áp tai xuống phản.
Thì này, không còn sai nữa, rõ ràng có tiếng hát ở đâu đâỷ Tôi hết sức lắng nghẹ Từng quãng một, như xa như gần, như khoan như nhặt, âm thanh kia réo rắt từng hồị Càng ngày nghe càng quen, càng rõ. Một chốc, tiếng đờn ca ngừng bặt, rồi lại tỏa ra; nhưng ước chừng gợn dư âm kia ở mãi ngọn đồi, chân ải, ở một vùng xa nhà bạn tôi đến dăm bảy trăm thước, không biết xuất phát từ hướng nàọ Cũng có lúc, nhờ sức gió bạt sang, nghe rõ nửa câu, vài điệu; lại có khi gió quay đi chiều khác, chỉ nghe lờ mờ văng vẳng mà thôị.
Tôi chú ý đến nửa giờ, mới đoán được giọng hát kia là giọng cô đào hát nóị Bởi lẫn trong đàn hát, một đôi khi nghe thoáng có nhịp phách chấm câụ Thôi, đích thị rồi! Có lẽ quanh vùng đây, có nhà hào mục, tổng lý nào được sắc ăn khao, vui mừng nên đặt ra trò tiêu khiển thanh cao nhã đạm ấỵ Nếu không phải thế thì trong hạt này làm gì có cái của hiếm, giống những nơi xa hoa phồn thịnh, tức là cái thú cô đầủ.
Nghĩ thế, tôi ngồi nhỏm lên, với tay gọi bạn:
- Này Thủy, ở đây có nhà nào đặt tiệc ăn mừng không? Bạn tôi mắt nhắm mắt mở, choàng thức dậy, với lấy cốc cà phê hớp nốt mấy ngụm cặn cuối cùng. Xong ml hỏi tôi:
- Cái gì thế? Anh không hút nữa à!
- Tôi thôi hút đã lâu; tôi muốn hỏi ở đây có nhà tổng lý nào được sắc ăn khao mà hát xướng om sòm lên thế?
- Làm gì có ăn khao, làm gì có hát xướng! Chả qua vì say thuốc phiện anh ù tai đấy mà thôị
- Nói lạ! Rõ ràng, tôi lắng đến nửa giờ, có tiếng hát đào văng vẳng, nên mới tư ởng rằng quanh vùng này có tiệc ăn khao …
- Anh nghe thấy tiếng hát ư? Thế thì anh có phúc thật! Tôi ở đây đã mười mấy tháng trời , mà cả hai vợ chồng, chả đứa nào nghe thấy gì cả!
- Anh nói cái gì tôi không hiểủ Nghe cái gì?
- Nghe hát.
- Hát gì? Hát cô đào …
- Cô đào ở đâủ
- Ở trong rừng?
- Sao lại ở trong rừng?
- Ở trong rừng nghĩa là ở trong rừng, chứ sao!
- Thằng cha này nói vô lý! Cô đào nào lại có thứ cô đào ở trong rừng?
- Thế mà ở trong rừng mới lạ chớ!
- Thôi, hẳn có sự bí hiểm gì ở chỗ này rồi, chớ không sai! Anh Thủy ôi! Anh làm ơn kể cho đệ nghe với nào!
- Dễ chửa, anh có gì biếu, tôi mới kể cho mà biết; chứ dễ thường mỗi lần anh muốn thỏa chí tò mò hiếu sự, thì anh cứ việc đang đêm hôm dựng cổ tôi dậy, là tôi phải kể hầu anh nghe đấy ư?
- Tôi lạy anh. Hễ anh kể tôi nghe, mà tôi viết được thành sách, thì quyển sách ấy sẽ riêng tặng anh, Lệ Thi và cháu Thu Nhi! Thế là món quà quí nhất của tôi đó!
- Ừ , thì được, nhng mà hãy thong thả một chút. Để tôi đánh thức Lệ Thi dậy, bảo đun nước pha một cốc cà phê đặc uống cho tỉnh táo đã, nhiên hậu mới kể được cặn kẽ cho anh nghẹ
- Thôi để tôi pha hầu, hà tất phải làm tội Lệ Thi như thế.
- Không được! Chỉ có vợ tôi pha tôi uống mới ngon thôi, vì nó biết tính tôi rồị Bao nhiêu nước, bao nhiêu đường, lại chỉ được lọc nửa cốc thôi, còn thì pha thêm nước sôi, nếu không, uống sẽ đắng mà không thơm. Lệ Thi! Còn thức đấy không? Dậy anh mượn tí!
Lệ Thi trong màn bước ra, vừa đi vừa vấn tóc. Dưới ánh đèn lờ mờ, trông nàng ban đêm đẹp quá. Nàng lịch kịch đun nước, pha hai cốc cà phê. Và nàng lại rót mía đường chèo chất đầy một dĩa cho chồng hãm giọng và bạn hãm thuốc.
Đương khi chờ đợi, Thủy uống hớp cà phê đầu thì cho lòng hiếu kỳ của tôi được mãn nguyện, và muốn cho câu chuyện đợm thêm vẻ nỗng nàn đằm thắm, tôi lại khêu to đèn tiêm thuốc hút nữa, khiến cho thời gian chung quanh mình cũng bớt phần ảm đạm, nặng nề.
Tiếng nước réo mãi không sôi làm tôi sốt ruột. Lệ Thi quay vào buồng đắp kín chăn cho con bé cháu, xong quay ra giắt màn cho chúng tôi cẩn thận rồi yểu điệu ngoan ngoãn ngồi thu hình sau lưng chồng, góp thêm trong quãng u tịch của đêm trường một cái bóng dịu dàng bên hai chiếc bóng cứng cỏi của tôi và Thủỵ
Ngoài thềm, tiếng trùng than dế khóc ầm ĩ tỉ tê như một khúc nhạc rầu rĩ êm đềm. Vài chiếc lá khô, thỉnh thoảng bị gió bạt lìa khỏi cành, xào xạc rơi xuống mặt sân gạch. Gió từng luồng nhẹ, chốc chốc rúc vào khe cửa, rên lên một tiếng não nùng như tiếng thở dàị Mưa, nghe chừng đã tạnh, nên không có tiếng tí tách rả rích trên vỉa hè nữạ Vạc, hàng dãy, xé không trung bằng những tiếng ri rắc, ngắn ngủi không hề có gợn dư âm.
Lệ Thi vươn tay qua mình chồng, lấy cái lọc cà phê bỏ ra ngoàị Thủy hớp được vài hớp nước nóng, bấy giờ mới đằng hắng vài cái bắt đầu nói chuyện.
Bóng Lệ Thi vẽ lên màn một cái hình thiếu phụ mơ màng.
NGÀN KHUYA VẮNG TIẾNG
Hai vợ chồng tôi ở đây đã quá một năm mà thực quả chưa bao giờ được cái hân hạnh như anh cả.
Từ khi chúng tôi vừa mới đến, đã nghe các ông cai và các bác phu già nói dông dài về nhiều chuyện đường rừng: nào dã sử của mấy mươi loài chim lạ, như con “cô ơi”, con “trà toản”, con “tử qui”, con “da da” vân vân, nào sự tích của bao nhiêu loài dị thú, như con “thủ thỉ”, con “rắn lục”, con “sài cứu”, con “vọng nguyệt”, nói thế nào cho hết được; tóm lại phần nhiều những chuyện đó, tuy lý thú, ý vị cả, song không lấy gì làm kỳ dị hãi hùng.
Bản tính tôi chỉ thích nghe những chuyện hãi hùng mà thôi, hóa nên tôi chả để ý đến lời họ nóị Mãi sau này, có một ông cai già mà anh em áo cộc thường gọi “Lão Cai Móm”, vì răng ông ta rụng gần hết – Ông ấy thuật tôi nghe một câu chuyện rất kỳ quặc, khủng khiếp. Đầu tiên tôi không tin, cho là ông ta cố tình bịa đặt, một là để vừa lòng tôi, hai là để dọa vợ tôi cho thú vị. Nhưng, được ít lâu trong một trường hợp cực kỳ quái gở, tôi suýt nữa bị tán đởm vì sợ hãi rồi từ đó tôi phải tin lời ông cai già là đúng.
Từ độ ấy, hễ cứ đêm nào mưa dầm gió bấc, như đêm nay chả hạn, là tôi cố thức và chú ý lắng tai nghẹ.
Tôi thức mãi, lắng mãi, mà chả bao giờ thấy gì cả. Cái lần mà đáng lẽ được nghe thấy, thì tôi lại sợ quá, chết ngất đi thiếu chút nữa mất mạng. Còn về sau này, thì cả vợ chồng, đêm đêm thường cùng nhau ngồi lắng tai gần suốt sáng, thế mà cũng chả thấy gì. Chán nản, chúng tôi đành bỏ, không thám thính nữạ Ai ngờ lần đầu tiên anh đến, anh đã nhận được ngay sự bí hiểm mà tổn hao tâm trí tôi vẫn chưa nhận được; tái anh thực là tai thánh, linh ứng bằng tai Hổ thần!
Quả như lời anh nói, sự bỉ hiềm kia là một điệu hát cô đầụ Trong rừng có ả đầu, đó mới là một sự đáng cho là bí hiểm! Nhất là ở mạn rừng nàỵ Bới lẽ Đồng Giao là một hạt hẻo lánh, dân tha nước độc, cô đầu đến làm gì? Trong mấy chục năm nay, có lẽ từ thượng cổ đến giờ, chưa khi nào có một chị quẩng mỡ hoặc điên rồ đến đây mở một ngôi hàng Hồng lâu cả. Thế thì tại sao chỗ này lại được nghe hát đào.
Cứ về đêm, quá giờ Tý, thì mới văng vẳng có tiếng đàn ca réo rắt. Đàn ca ấy lại xuất phát tử mé giữa rừng. Hai tháng đầu khi tôi mới đến cũng lắm người nói với tôi như thế tôi đều cho là bịa đặt. Về sau, nghe thấy ai cũng cam đoan là sự thật, tôi mới đâm nghi ngờ, muốn biết rõ duyên cớ vì đâu có sự dị kỳ như vậỵ Nhưng hỏi ai, họ cũng đều bảo là trong rừng đêm đêm có tiếng hát, không biết tại sao mà có. Người đoán đó là ma, kẻ bảo là yêu tinh, có một ông cụ lại quyết rằng đó là một thứ hồ ly lạc mãi từ bên Tàu, đi lần đường núi thẳm qua Vân Nam sang tới xứ Lào, rỗi lần mò tới Đồng Giao thì không đi nữa, vì tìm được địa thế hợp với nó. Sau, lại có một bà già nói là mắt bà thấy con quái vật ấy ở trong hang đá nứt mà chui ra, trước thì là con vợn trắng, rùng mình một cái biến ngay ra con gái rõ đẹp; vô phúc ai gặp phải thì nó quyến rũ đưa vào hang, đàn bà nó không thèm bắt, nhưng đàn ông thì túm ngay lấy làm chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết xương tủy, trong ba ngày phải chết.
Ông ký ga bảo là không phải thế, theo như ông biết, thì đó là một nàng tiên rất mỹ miều diễm lệ. không làm hại ai cả. Nàng ấy ngụ Ở thân một cây quế lớn, đi tạt qua cũng ngửi thấy mùi hương xông lên, nhưng cố tìm tòi hàng tháng cũng không ra, bời lẽ nàng tiên đã biến cây quế thành một cây gỗ khác rồị Cứ những ngày tôi tăm trời đất, hoặc những ngày sáng sủa có trăng sao, nàng lại hiên rạ Trời đất buồn thì nàng buồn, trời đất vui thì nàng vui; hoặc vui, hoặc buồn, nàng đều lấy điệu hát câu ca véo von làm thú tiêu khiển. Truyền rằng có khi nàng thổi sáo, nghe như tiếng sáo diều, bay xa ngàn dặm. Nhưng ít khi nàng dùng thứ âm nhạc ấy; thường thường nàng tự mồm ca tay đờn, ca be bé cho một mình nàng nghe thôi, bởii thế ta có thính tai lắm mới thoáng nhận được vài điệu bổng trầm.
Đến lợt ông cụ Bát ở gần chợ thì không phải tiên mà là rắn, một thứ bạch xà to lớn hơn con trăn gió, biến hóa vô chừng. Nó lúc hóa đàn ông, lúc hóa đàn bà, lúc hóa trẻ con, không biết thế nào mà lường, vì nó đủ lục tri thần thông. Sở dĩ nó ca hát, là để mê hoặc lòng người, để cho những kẻ hiếu sự tò mò tìm đến xem nó tận đáy rừng, lúc đó nó sẽ há rộng miệng rồi chỉ việc hít một cái nhẹ nhẹ là tự khắc mình bay tọt vào họng nó, cho nó nuốt.
Khi hỏi đến bà Chánh Ba, là người từng đi lại hạt Đồng Giao buôn bán, thì bà nghiêm nghị hạ thấp giọng xuống và nói se sẽ, một cách rát kính cẩn rằng nàng tiên đó là một vị công chúa trong 12 Chầu Cô hẩu Đức Bà Thượng Ngàn. Ấy là “cô nường” Quỳnh Hoa đó. Vì cô nường lỡ tay làm rơi chiếc chén cẩm ngọc khi róc rượu mời Đức Bà Liễu Hạnh ở Sòng Sơn, nên bị đày ra rừng Đồng Giaọ Bới thế, những đêm u tịch tẻ buồn, hay những đêm thanh vắng sáng sủa, nàng Quỳnh Hoa lại nhớ đến Chầu Bà Thượng Ngàn và mười một chị em, trong lòng buồn rầu tràn ngập, phải hiện lên đi du ngoạn cho tiêu sầụ Và giữa lúc ấy, đối cảnh sinh tình, cô nường bùi ngùi hoài vọng, hát lên một khúc ngõ hầu vợi bớt nỗi lòng.
Nghe thuyết của bà Chánh Ba, các bọn phụ nữ đều tỏ vẻ sợ hãi, sùng kính; ai cũng cho thuyết ấy là đúng. Nghĩ cho kỹ thì câu chuyện bà Chánh nói còn có ý vị, nó không hoang đường mấy và còn hợp lẽ hn các chuyện khác nhiềụ.
Nhưng nó không được ly kỳ rùng rợn băng câu chuyện của ông Phó Cựụ Ông Phó Cựu cả quyết nói lớn rằng ông biết đích tông tích của con quái vật hiện ra trong rừng; nó chính là một con Sài Kíụ Cái giống Sài Kíu này na ná như loài chó sói, song dữ tợn hơn nhiềụ Đầu nó cứng rắn như sắt; có kẻ bẫy được nó, lấy búa bổ mãi vào sọ dừa mà cũng không vỡ. Nó thường hay cúi gằm mặt xuống mà đi, trông tựa như một con chó dại lớn lờ đờ buồn bã. Thế mà hễ gặp người thì nó nhảy xồ lại mé sau lưng, bá chặt lấy vai, móc mắt, và khi mình ngã xuống rồi, nó cắn vào cổ cho chết; xong đâu đấy nó tha xác vào một hang hốc giấu đị Nó đợi cho lúc xương thịt rã rời , có mùi hôi thối xông lên, có ruồi bọ bám đầy, lúc bấy giờ nó mới đến ăn. Cái giống sài ấy chỉ ham có thịt thiu thịt rữa mà thôi, nó không thẽm ăn thịt tươi như các mãnh thú khác. Ở phía tây nớc Tàu, trong các tỉnh lắm rừng rú hiểm trở như Tứ Xuyên, Quí Châu và Vân Nam, Cam Túc v.v … có rất nhiều Sài Kíụ Người Tàu thường dùng hai chữ sài lang; lang là để chỉ loài chó sói, còn sài thì chỉ giống Sài Kíu đó. Giống đó đi lùng khắp chốn, đánh hơi ngửi mùi xác chết; phàm giả chỗ nào có mả mới là nó sục đến, lấy đầu húc vào đất cho bật tung quan tài lên, rồi xé xác ra mà ăn. Bởi thế nên trong mấy tỉnh trên đây, ở các miền gần rừng rậm, dân cư không dám chôn người chết nữa, họ phải dùng lối táng treo, nghĩa là đem quan tài vào trong rừng rồi buộc lủng lẳng trên cành cây caọ Giống Sài Kíu không leo trèo được, đành chịu thua, hết kế vọc xác người chết. Nhưng chúng nó cứ đợi cho trong quan tài có nước rỏ xuống cỏ lại liếm thứ nước “béo bổ” ấỵ.
Ăn thi thể mục nát mãi, lâu ngày có con thành tinh; con nào ăn được hơn trăm tử thi thì cũng linh thính và có phép biến hóa như hổ bắt được đủ trăm ngườị Con yêu ở Đồng Giao này chính là một con Sài Kíu cái đã có hạnh phúc “xơi” được hơn trăm thây người chết, nên thành ra đủ phép thần thông đó! Nỏ cứ hiện lên hát véo von để bẫy người ta vào xem. Gần đến sào huyệt của nó, nó sẽ run rủi cho mình đi vào tử địa, khiến mình bị bỏ xác ở những chỗ hang sâu vực thẳm, rồi, đợi khi nào trên tử thi mình đầy các thứ giòi bọ hôi tanh, lúc bấy giờ nó mới đến xé thịt mình ra đánh chén.
Cứ nghe thiên hạ xôn xao bàn tán, thì mỗi người nói một cách, mỗi người có một chuyện riêng, mà không chuyện nào giống chuyện nào như thế, còn xét làm sao cho rõ biết căn nguyên của sự mình muốn biết nữả Thực là khó. Bởi thế tôi cứ phân vân, bán tín bán nghi, nghe bà con kể lại thì biết vậy, song không dám tin lời ai cả.
Cho đến lúc tôi được nghe chuyện ông Cai Móm. Ông Cai Móm là người làm công cho tôi từ lúc tôi vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Giao lần đầụ Ông là một cụ già quắc thước, đứng đắn và nghiêm nghị, tôi tin cẩn lắm. Ông lại ít nói, không bờm xơn bợm bãi bao giờ. Các bạn đồng nghiệp và các phu phen sợ hãi và kính nể ông lắm lắm.
Ông chỉ giao thiệp với tôi trong những giờ có việc còn ngoài ra, ít khi ông vào nhà tôi chơi độ vài tiếng đồng hồ. Tuy già mà ông chăm chỉ làm lụng cặm cụi cả ngày hóa nên chả mấy lúc rảnh. Cũng do một sự tình cờ tôi mới được nói chuyện với ông trong một đêm, rồi được rõ sự tích khúc hát trong rừng nó ly kỳ rùng rợn như thế nàọ
Hôm đó khoảng tám giờ tối, có một kiện hàng rất quan trọng từ Hà Nội gần về. Lẽ ra thì...