mắt, tôi đã buột miệng trầm trồ:
- Hay ghê!
Ngữ phổng mũi:
- Đấy! Muốn làm văn nghệ phải thuộc những câu ca dao “ướt át” như vậy. Mày cứ bị ám ảnh bởi cá chuồn, cá trích hoài làm sao làm văn, làm thơ hay được!
Ngữ nói đúng. Những câu ca dao nó đọc nghe mới thắm thiết làm sao! Cả đời tôi chỉ mong ước
làm được những câu thơ hay bằng một nửa vậy thôi. Nhưng khổ nỗi, những câu ca dao đặc sắc kia đều liên quan mật thiết đến đề tài tình yêu trong khi tôi lại chẳng màng đến ba chuyện yêu đương vớ vẩn đó. Đối với tôi chả bao giờ có chuyện “thương em muốn chết giả đò làm lơ”. Tôi “ghét em muốn chết” thì có! Gặp bọn con gái là tôi “lơ” thật, “lơ” từ đầu năm đến cuối năm, cần quái gì phải giả đò. Chẳng giả đò, mặt tôi cũng đã lạnh như… đá cục.
Thấy tôi lộ vẻ thẫn thờ, Ngữ hất hàm:
- Sao? Có gì khúc mắc cần hỏi thêm không? Làm gì trầm ngâm hoài vậy?
Tôi tặc lưỡi, ngần ngừ:
- Sao tao thấy làm thơ “ướt át” khó quá!
Ngữ động viên tôi:
- Bước đầu bao giờ chả khó! Ông bà đã nói rồi, “vạn sự khởi đầu nan”. Nhưng mày đừng lo. Chuyện gì cũng vậy, làm hoài sẽ quen. Thơ văn mày hiện nay hơi “khô” nhưng nếu mày chú tâm rèn luyện, nó sẽ “ẩm” dần dần. “Ẩm” một thời gian, nó sẽ chuyển qua… “ướt át”. Đó là quy luật.
Tôi nghe Ngữ giảng giải một hồi, đầu óc càng rối tinh rối mù. “Lý luận văn học” của nó sao nghe na ná như chương trình dự báo thời tiết trên ti vi, khi thì ẩm lúc thì khô, chẳng biết đường nào mà lần.
Dường như đọc được nỗi hoang mang trong mắt tôi, Ngữ gật gù nói thêm:
- Mày cứ tin tao đi. Hồi trước tao cũng vậy. Lúc tao mới tập viết văn, câu nào câu nấy khô queo, tao luyện riết, bây giờ chúng ướt đẫm, hễ đọc là cứ muốn nấc lên.
Tôi biết Ngữ không “hù” tôi. Nó nói thật. Đã bao nhiêu đứa sụt sùi trước những dòng lưu bút lâm ly của nó. Thơ nó cũng vậy. Bài nào bài nấy tình cảm dầm dề như mưa tháng bảy. Tôi không biết nó đã yêu ai bao giờ chưa nhưng thơ nó lúc nào cũng than thở về một mối tình đã… chết, đọc lên thấy thương ghê, thấy cứ muốn dẫn nó đi uống cà phê cho nó đỡ buồn.
Nhưng mặt mạnh của Ngữ chính là điểm yếu của tôi. Tôi đã thề không đội trời chung với bọn con gái. Chẳng lẽ bây giờ tôi bắt chước thằng Ngữ cất giọng khóc than, năn nỉ “kẻ thù” của tôi? Thật là khó xử!
Tôi nhăn nhó nói với Ngữ:
- Vấn đề không phải là “khô” hay “ướt”. Tao nói khó là khó chuyện khác.
Ngữ ngạc nhiên:
- Khó chuyện gì?
Tôi bối rối thú nhận:
- Tao không thích làm thơ tình.
- Thơ tình mà không thích? – Ngữ kêu lên sửng sốt.
- Ừ. Tao không thích.
Ngữ dòm tôi bằng ánh mắt lạ lùng:
- Sao vậy?
Tôi ấp úng đáp:
- Tại tao ghét… bọn con gái.
Ngữ giật bắn người như chạm phải lửa. Nếu không có cái lưng ghế phía sau, có lẽ nó đã lăn quay xuống đất rồi. Sau một hồi trố mắt nhìn tôi như thể nhìn một quái vật, Ngữ vội sờ tay lên trán tôi.
- Mày làm trò gì vậy? – Tôi hỏi, giọng ngơ ngác.
Ngữ khịt mũi:
- Tao xem thử mày có “ấm đầu” không! Toàn thể đàn ông trên thế giới đều thương con gái. Ghét con gái, họa chăng chỉ có người điên.
Tôi cau mặt, hất tay Ngữ ra:
- Tao không điên. Nhưng tao ghét con gái.
Thái độ bướng bỉnh của tôi khiến Ngữ nổi cáu. Nó nghiêm giọng quở trách:
- Mày không được ghét bọn con gái, hiểu chưa! Phải thương tụi nó nhiều vào! Thấy đâu thương đó, thấy ít thương ít, thấy nhiều thương nhiều. Nếu ghét tụi nó, mày nên chọn nghề khác. Nghề uốn tóc chẳng hạn. Tụi nó muốn tóc cúp vô thì mày uốn quăn ra, tụi nó muốn tóc xù thì mày chơi tóc tém, tụi nó khoái tóc dài, mày chơi mốt… ni cô. Còn đã đi theo cái nghiệp văn thơ thì phải thương con gái. Đó là… bổn phận.
Nghe Ngữ “thuyết” một hồi, tôi rụng rời tay chân. Nhưng tôi không dám lên tiếng phản đối, sợ Ngữ điên tiết sổ toẹt mơ ước của tôi. Tôi đành thở dài, “tiếp thu” bằng một giọng yếu ớt:
- Ừ, tao sẽ tập dần dần. Muốn thương tụi nó đâu phải dễ.
Thấy tôi chịu phục thiện, Ngữ có vẻ tươi tỉnh hơn. Nó dịu giọng khuyến khích:
- Không dễ nhưng không phải là không làm được. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir”. Muốn là được. Mày phải bắt chước tao. Con gái lớp mình, đứa nào tao cũng thương hết.
Tôi há hốc mồm:
- Mày thương hết mười hai đứa?
Ngữ gật đầu:
- Ừ, tao thương “trọn bộ”.
Mối tình “khổng lồ” của Ngữ khiến tôi phát rét. Nhưng tôi không khỏi băn khoăn:
- Mày thương nguyên một tá sao tao không biết? Tao có thấy mày làm gì đâu!
Ngữ nhún vai:
- Thì tao đâu có định làm gì! Tao chỉ làm… thơ thôi.
Tôi chớp mắt:
- Thế tụi nó có biết mày thương không?
Ngữ nuốt nước bọt:
- Chắc là không! Tao không nói làm sao tụi nó biết!
Tôi lại thắc mắc:
- Mày thương mà không nói, vậy thương làm gì?
Ngữ nheo mắt nhìn tôi:
- Mày ngốc quá! Tao thương tụi nó là thương chơi thôi, thương để làm thơ. Tao đâu có thương thiệt mà phải nói ra!
Lần đầu tiên trong đời tôi nghe nói đến hai chữ “thương chơi”. Tôi ngẩn ngơ ngó Ngữ:
- Thương để… làm thơ?
Ngữ gục gặc đầu:
- Chứ sao! Đã là văn nghệ sĩ thì không thể yêu theo kiểu phàm phu tục tử được. Tình yêu của tụi mình là tình yêu lặng thầm và cao thượng. Yêu không “tuyên bố” cũng cóc cần đền đáp. Cứ câm nín, ấp ủ, dày vò, tụi mình sẽ có cả khối cảm xúc để viết nên những vần thơ bất hủ. Các nhà thơ lớn xưa nay vậy.
Con đường văn nghệ Ngữ vừa phác họa nghe thật hấp dẫn và xem ra cũng không đến nỗi khó đi lắm. Tưởng yêu “thiệt” theo kiểu “phàm phu tục tử” tôi mới ngán chứ yêu “chơi” theo kiểu “văn nghệ sĩ” thì tôi nhắm sức mình có thể yêu được. Tôi bèn hào hứng nói với Ngữ:
- Nếu vậy tao làm được. Tưởng gì chứ thương “chơi”, thương “để làm thơ” thì đâu có khó!
Thấy tôi không còn đòi ghét con gái nữa, Ngữ khoái chí, tiếp tục vung vít:
- Tình yêu của tụi mình còn có cái khỏe là không sợ bị từ chối, cũng chẳng ai biết mà chọc quê. Hơn nữa, mình có thể yêu tự do, muốn yêu ai thì yêu. Tụi phàm phu tục tử mỗi lần chỉ có thể yêu được một người, yêu hai người là có chuyện, trong khi tụi mình có thể yêu gộp một lúc toàn bộ phụ nữ trên thế giới này cũng được. Vậy là nhất rồi, còn muốn gì nữa!
Nói xong, Ngữ cười tít mắt. Dòm nó, tôi có cảm tưởng như toàn bộ phụ nữ trên thế giới này đang đổ xô thương nó, chứ không phải là ngược lại.
Tôi chẳng tham lam như Ngữ. Tôi chỉ muốn thương in ít thôi, thương những người mà mình biết mặt biết tên hẳn hoi. Suy tính hồi lâu, tôi rụt rè nói:
- Vậy kể từ ngày mai, tao bắt đầu thương hén?
- Ừ. Nhưng mày định thương ai?
Tôi bối rối:
- Thì thương mấy đứa con gái lớp mình! – Rồi tôi bẽn lẽn nói thêm – Tao sẽ thương khoảng… sáu đứa!
Ngữ giật thót:
- Không được! Như vậy thì nhiều quá!
Sự phản đối bất ngờ của Ngữ khiến tôi ngẩn người ra. Rõ ràng mới vừa rồi nó bảo tôi muốn thương ai thì thương, thương bao nhiêu cũng được, vậy mà tôi mới mở miệng đòi thương, nó đã chặn ngang họng rồi. Tôi nhìn Ngữ, thấp thỏm hỏi:
- Có sáu đứa mà… nhiều?
Ngữ tặc lưỡi:
- Đối với mày, như vậy là nhiều! Phải giảm bớt lại!
Tôi khịt mũi:
- Chứ mày thương nguyên cả lớp đó sao! Tao chỉ bằng phân nửa mày chứ mấy!
Thấy tôi có vẻ giận dỗi, Ngữ cười hì hì. Nó vỗ vai tôi, giọng kẻ cả:
- Tao khác, mày khác, sánh sao được mà sánh! Đối với tao, một tá cũng còn ít. Còn đối với kẻ mới “nhập môn” như mày, sáu đứa lại quá nhiều, mày không thể tập trung tư tưởng được. Lúc “đề-pa”, chỉ nên thương một em thôi.
Tôi đực mặt ra:
- Tao chỉ “được” một em thôi sao?
Ngữ gật gù hắng giọng:
- Một và chỉ một mà thôi!
Một khi Ngữ đã khống chế số lượng “người yêu” của tôi bằng một định đề toán học thì tôi biết có năn nỉ cũng bằng thừa. Tôi đành thở dài xuôi xị:
- Thôi một em cũng được!
Sau khi đã chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, tôi ngồi nặn óc xem nên “thương” đứa nào trong số mười hai đứa con gái của lớp tôi. Trước nay, tôi chẳng thèm để mắt đến tụi nó, bây giờ phải ngồi nhớ lại từng khuôn mặt, chọn ra một khuôn mặt ít hắc ám nhất để đem lòng “thương”, đối với tôi thật là gian nan trầy trật. Tôi điểm danh trong đầu một vòng, hai vòng rồi ba vòng mà chẳng chọn được “đối tượng” vừa ý. Mười hai đứa, đứa nào tôi cũng… không ưa. Chẳng hiểu sao Ngữ có thể thương không sót một mống, tài thật!
Thấy tôi ngồi đăm chiêu cả buổi, Ngữ hỏi:
- Mày nghĩ ngợi gì vậy?
Tôi lúng túng thú thật:
- Tao đang nghĩ xem nên… thương đứa nào.
- Mày nghĩ ra chưa?
Tôi gãi đầu, ngượng ngập:
- Chưa. Không hiểu sao tao thấy khó quá.
Ngữ nhiệt tình:
- Nếu mày thấy khó thì để tao chọn giùm cho. Người ngoài cuộc bao giờ cũng sáng suốt hơn.
Nghĩ mãi không ra, tự nhiên thấy Ngữ đòi làm “cố vấn”, tôi bằng lòng ngay:
- Ừ, mày chọn giùm tao đi!
Ngữ giỏi giang hơn tôi nhiều. Chỉ một thoáng, nó đã kêu lên:
- Tao nghĩ ra rồi!
Tôi tròn mắt, hồi hộp:
- Đứa nào vậy?
- Em Hồng.
- Trời ơi, con Hồng “chà-và” hả?
Tôi la lên thất thanh và bỗng nghe tai mình ù đi. Suýt một chút nữa tôi đã xỉu ngay trong quán. Tôi tưởng thằng Ngữ nó chọn cho tôi đứa nào chứ nó chọn nhỏ Hồng thì rõ ràng nó “giết” tôi chứ đâu phải “giúp” tôi. Trong mười hai đứa con gái lớp tôi, nhỏ Hồng xếp hạng bét về nhan sắc cũng như về tính tình. Nó tên Hồng nhưng nước da nó chẳng hồng chút nào. Da nó đen thui. Nghe nói ngay từ lúc học lớp sáu, nó đã mang biệt danh Hồng “chà-và” rồi. Đã vậy, nó còn uốn đầu tóc xoăn tít, mỗi lần dòm, tôi cứ rởn cả tóc gáy, tưởng đâu nó là người Việt gốc… Phi châu.
Đó là bề ngoài. Bề trong nó còn đáng chán hơn. Ngồi trong lớp, nó chuyên môn nói chuyện. Cái đầu xoăn tít của nó hết quay trái lại quay phải, không biết nằm yên là gì. Tôi ngồi sau lưng nó, mỗi lần chép bài, tôi phải không ngừng lắc lư cái đầu theo nó mới mong thấy được chữ viết trên bảng. Lần nào cũng vậy, chép xong được bài học, cổ tôi mỏi nhừ.
Nhỏ Hồng còn nổi tiếng chanh chua, đanh đá. Không chỉ tụi con gái, mà ngay cả đám con trai cũng ớn nó ra mặt. Đứa nào vô phúc chọc phải nó, coi như đứa đó… tàn đi. Nó mắng sa sả, nghe không kịp vuốt mặt, nạn nhân chỉ còn có nước ôm đầu lủi vô một xó nào đó, ngồi trốn và chờ cho “tai qua nạn khỏi”. Vì vậy, đứa nào cũng “cạch” nó. Tôi lại càng “cạch”. Nó mà biết tôi “thương” nó, “làm thơ” cho nó, chắc nó vác guốc rượt tôi chạy quanh sân trường.
Vậy mà bây giờ thằng Ngữ lại chơi ác bắt tôi phải thương bà chằn tinh đó. Nó bắt tôi phải ấp ủ, phải dày vò… khổ ơi là khổ!
Tôi nhìn Ngữ, mặt méo xẹo:
- Thôi, tao không “thương” nhỏ Hồng đâu! Mày làm ơn đổi giùm tao em khác đi!
Ngữ phớt lờ sự khiếu nại của tôi. Nó lên giọng:
- Không được! Tình yêu chứ đâu phải hàng hóa mà mày đòi đổi tới đổi lui!
- Nhưng nhỏ Hồng nó… đen thui! – Tôi cố khẩn khoản.
Ngữ vẫn lạnh lùng:
- Đen trắng thì ăn thua gì! Khi đã thương, mày nhìn màu đen thành màu trắng mấy hồi!
Thấy Ngữ không thèm đếm xỉa gì đến nguyện vọng chính đáng của tôi, nó cứ khăng khăng bắt tôi “thương” con Hồng “chà-và”, lòng tôi như thắt lại. Tôi ấm ức nói:
- Mày chỉ “xí gạt” tao! Màu đen làm sao nhìn cho ra… màu trắng được! Tao có cố lắm cũng chỉ nhìn “đen” thành “xám” là cùng!
Ngữ cười ha hả:
- Trời, tao “xí gạt” mày làm gì! Tại mày chưa biết đó thôi, chứ tình yêu nó màu nhiệm ghê lắm. Nó biến cái này thành cái khác như chơi. Mày nghe mấy câu ca dao này bao giờ chưa?
Nói xong, không đợi tôi trả lời, Ngữ đã hùng hồn đọc:
- Lỗ mũi em mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho
Đêm nằm thì ngáy o o
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm…
Ngữ đọc một lèo, thao thao bất tuyệt. Tôi ngồi dỏng tai nghe, hoang mang và chăm chú.
Đọc dứt câu cuối cùng, Ngữ nhướng mắt dòm tôi:
- Mày hiểu bài ca dao vừa rồi muốn nói gì không?
Không những tôi hiểu bài ca dao muốn nói gì mà tôi còn hiểu thằng Ngữ muốn dẫn tôi đi đâu, vì vậy tôi gật đầu một cách rầu rĩ.
Đúng như tôi nghĩ, Ngữ cười đắc thắng:
- Như vậy là mày chịu thương em Hồng rồi hén?
Biết mình đã sập bẫy, tôi thở dài xuôi xị và kháng cự bằng một giọng yếu ớt:
- Nhưng nhỏ Hồng dữ như chằn. Nó mà biết tao “thương” nó, nó chửi tao tắt bếp.
Vẻ mặt đưa đám của tôi chẳng khiến Ngữ động lòng. Nó quắc mắt:
- Mày chỉ giỏi phịa! Mày không nói, làm sao nó biết được? – Rồi Ngữ bỗng nghiêm giọng – Bây giờ tao hỏi thật, mày có muốn viết được những áng thơ văn bay bướm không?
- Muốn! – Tôi gật đầu như máy.
- Mày có muốn những sáng tác của mày được đăng lên báo tường không? – Ngữ lại hỏi.
Tôi liếm môi:
- Muốn.
Ngữ ranh mãnh:
- Thế mày có muốn thương em Hồng không?
Lần này thì tôi hết đường tránh né. Tôi đành phải nuốt nước bọt, bần thần đáp:
- Muốn.
Ngữ cười toe:
- Khá lắm! Bây giờ tao mới nhận ra là mày có năng khiếu… văn nghệ!
Ngữ khen tôi mà sao tôi chẳng thấy vui. Thấy nó cười, tôi cũng nhe răng cười theo nhưng miệng tôi cười như mếu. Từ khi tôi mở miệng “kết nạp” nhỏ Hồng làm “người yêu”, lòng tôi bỗng nặng như đeo đá. Tôi tưởng như tôi vừa mới “rước vạ” vào mình. Trước đây lòng tôi thanh thản biết bao nhiêu, tự dưng đi nghe lời thằng cha chủ bút hắc ám kia, để bây giờ tôi phải mang nặng bên lòng “nỗi nhớ thương” dù là thương theo kiểu tôi, chỉ có ma mới biết.
Trong khi Ngữ ngồi rung đùi thưởng thức thành quả “dụ dỗ” của nó thì tôi cứ lầm bầm cay đắng và không tiếc lời nguyền rủa “mối tình” vừa chớm nở của mình.
Chương 3:
Phàm ở đời, không phải bao giờ con người ta cũng làm được mọi chuyện theo ý mình. Có những ước mơ cháy bỏng mà cả đời mình không bao giờ đạt tới. Lại có những chuyện mình ngán tới tận cổ mà vẫn phải bấm bụng lăn xả vào. Như “chuyện tình” của tôi chẳng hạn.
Tôi ghét cay ghét đắng nhỏ Hồng – từ hồi buộc phải “yêu” nó, tôi càng thù nó tợn – vậy mà tôi vẫn phải bắt lòng mình thương nhớ nó. Suốt một thời gian dài, tôi nghĩ về nó còn nhiều hơn là nghĩ về mẹ tôi. Theo lời dặn dò của Ngữ, mỗi lần nghĩ đến nhỏ Hồng, tôi phải ráng thổn thức, ráng day dứt để… làm thơ.
Nhưng thơ tôi tắc tị. Kể từ khi đem lòng “yêu” nhỏ Hồng, tôi chẳng còn hứng thú sáng tác nữa. Tôi cố bắt chước người chồng “quáng gà” trong câu ca dao Ngữ đọc. Tôi bắt mình phải tưởng tượng nhỏ Hồng có nước da trắng như… tuyết. Nhưng càng tưởng tượng, tôi càng thấy nước da nó đen thui. Cả mái tóc nó cũng vậy. Tôi nhớ trong văn chương, các nhà thơ thưng hay nói đến tóc mây, tóc huyền, tóc thề… Nhưng khổ nỗi, mái tóc của nhỏ Hồng lại không giống với bất cứ một mái tóc nào như thế. Tôi đã làm mọi cách để hạ tiêu chuẩn thẩm mỹ của mình xuống sát… đất, tôi cố căng mắt tìm xem cái vẻ đẹp ẩn nấp ở chỗ nào trong những lọn tóc xoăn tít kia nhưng tôi không tài nào tìm thấy. Càng nhìn, tôi chỉ càng thấy nó giống… trái chôm chôm.
Sau vài lần thất bại, tôi không thèm tưởng tưởng nữa. Tôi quay sang chửi thầm thằng Ngữ tơi bời. Tưởng nó chỉ dẫn hay ho thế nào, ai ngờ càng “yêu”, tôi lại càng thấy nản. Tôi còn giận Ngữ vì chuyện khác. Ai đi cả lớp chỉ có mười hai đứa con gái thì mười một đứa “kha khá” nó giành nó thương hết. Còn cái đứa trời sinh ra không phải để cho các nhà thơ ca ngợi thì nó “phân phối” cho tôi, nó bắt tôi “ấp ủ” để làm thơ.
Ngữ không biết tôi đang giận nó. Thấy cả tuần tôi không mở miệng, nó tưởng tôi đang tập trung tư tưởng vào chuyện sáng tác. Vì vậy, nó chẳng thắc mắc gì. Mỗi lần đi ngang qua tôi, nó chỉ mỉm cười vỗ vai tỏ ý khuyến khích. Những lúc ấy, Ngữ cười cứ việc cười, mặt tôi vẫn hầm hầm. Nhưng Ngữ chẳng hề bận lòng về thái độ cáu kỉnh của tôi. Chắc nó tưởng tôi đang tập tành “đau khổ” nên mặt tôi mới “sưng” lên như thế.
Chỉ đến khi tờ báo tường tháng đó sắp ra mà chẳng thấy tôi gởi bài như mọi lần, Ngữ mới ngạc nhiên. Nó lân la lại gần tôi, hỏi:
- Mày đã sáng tác được bài nào chưa?
Tôi mím môi:
- Chưa.
Ngữ trố mắt:
- Ủa, sao lâu vậy? Mấy hôm nay tao thấy mày “đau khổ” lắm mà. Đau khổ bao giờ cũng là chất liệu của văn chương. Nó tạo nên…
Tôi cay cú ngắt ngang li thuyết giảng của Ngữ:
- Nhưng mà tao đau khổ vì chuyện khác.
- Chuyện gì?
Tôi nói, giọng ganh tị:
- Chuyện mày giành mày thương hết mấy đứa sáng láng, mày chừa lại cái “cột nhà cháy” mày bắt tao thương…
Ngữ cười hì hì:
- Trời ơi, thương chơi chớ có phải thương thiệt đâu mà mày so bì!
Tôi quạu quọ:
- Thương chơi tao cũng không thương nổi. Tao nghe lời mày, tối nằm ráng tưởng tượng nước da nhỏ Hồng trắng tinh như tờ giấy…
Ngữ cắt ngang lời tôi, giọng nén cười:
- Mày thấy nó có giống tờ giấy không?
Tôi giận dỗi:
- Có. Giống hệt tờ giấy… các-bon.
Trong khi tôi mặt nhăn mày nhó thì Ngữ ôm bụng cười bò. Lát sau, nó quệt nước mắt, chậm rãi nói:
- Vấn đề không phải ở chỗ con Hồng “chà-và”. Đẹp xấu không đóng vai trò gì ở đây. Trái lại, tình yêu càng “ngang trái”, càng “khập khiễng” càng sinh ra lắm tứ thơ. Tất cả chỉ do mày thôi. Tự cổ chí kim, không một nhà văn, nhà thơ lớn nào lại leo lên giường nằm trùm mền tìm cảm hứng. Cảm hứng sáng tác nằm chỗ khác. Nó nằm ở ngoài thiên nhiên. Mày phải đi ra sau vườn, đi ra ngồi ngoài bờ ao, mắt ngắm cỏ cây, tai nghe chim hót, ban ngày đợi chiều xuống, buổi tối đợi trăng lên. Lúc ấy, nghĩ về em Hồng mày sẽ thấy nước da em không còn giống giấy các-bon nữa mà giống giấy pơ-luya chính hiệu, mày sẽ nhớ em da diết, rồi tứ thơ tự dưng cuồn cuộn đổ về như thác lũ, muốn ngăn cản cũng không được. Rồi mày sẽ viết ra, rồi tao sẽ đăng lên báo tường của lớp. Rồi cứ theo cái đà đó, chẳng mấy chốc mày sẽ trở thành một nhà thơ nổi tiếng không kém gì Nguyễn Du.
Ngữ nói tràng giang đại hải. Nói xong, nó cười toe. Trong khi đó, tôi đực mặt ra nghe những lời ngọt như mía lùi của nó. Tôi không biết tôi có bắt chước Nguyễn Du được tí ti ông cụ nào không, chứ khi khuyên tôi rõ ràng thằng Ngữ bắt chước y hệt cái giọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm vịnh cảnh nhàn “thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Nó còn xúi tôi noi gương lối sống của các cụ ngày xưa, kiểu như “khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên”. Tôi nghe nó nói, trong bụng nửa tin nửa ngờ, cứ nghi nó chơi xỏ tôi. Chỉ khi nghe đến những câu cuối cùng, tôi mới thôi ngờ vực. Ngữ hứa hẹn...