quả đấu tranh sinh tồn của kẻ mạnh hơn. Nếu anh chàng kia là kẻ mạnh hơn trong hai chúng tôi thì cô ấy đã không bỏ rơi anh ta. Thôi, bây giờ hãy nói chuyện khác; tôi đã chán chuyện này lắm rồi!
- Một câu hỏi nữa thôi. Làm thế nào mà anh đã dứt bỏ được cô ấy trong ba tuần lễ?
- Này, cả hai đứa chúng tôi đều đã thỏa mãn đôi chút nỗi khát khao, anh hiểu chứ? Cô ấy khăng khăng từ chối việc
quay lại Rome là nơi mà cô ấy thấy mình buộc lòng phải gặp mặt những người cô ấy quen biết, mà nhất định Rome là tối cần thiết với tôi, và tôi cũng đã nhớ nhung công việc của tôi. Đó là lý do bình thường thứ nhất cua sự tan vỡ. Ngoài ra ông bố già của cô ấy lại thình lình tới khách sạn, và ông cụ đã la cho chúng tôi một trận… Thế là cuộc tình đã có một chiều hướng quá khó chịu khiến tôi thật sự thấy vui vẻ khi thoát khỏi nó, mặc dù tôi đã nhớ cô ấy một cách khủng khiếp trong ít lâu. Bây giờ tôi tin tưởng là anh sê không nhắc lại một chút gì về những chuyện tôi đã nói với anh.
- Bạn Kennedy thân mến, không bao giờ tôi dám làm việc đó đâu? Nhưng tất cả những gì anh kể lại làm tôi rất quan tâm vì tôi đã hiểu rõ được nhân sinh quan của anh. Nó hoàn toàn khác hắn quan niệm của tôi, bởi vì tôi đã biết rất ít sự đời… Và bây giờ anh muốn tôi nói cho anh biết về những hầm mộ mới của tôi phải không? Anh có cố gắng bảo tôi mô tả chúng ra cũng vô ích thôi. Không bao giờ anh tìm thấy chúng qua một sự mô tả sơ sài. Việc duy nhất phải làm là tôi phải dẫn anh tới đó.
- Thật là tuyệt diệu!
- Bao giờ anh muốn đến chỗ đó?
- Càng sớm càng tốt. Tôi rất nôn nóng…
- Sự thật là đêm nay rất đẹp, tuy rằng hơi lạnh một chút. Anh có muốn rằng chúng ta sẽ khởi hành trong một giờ nữa không? Phải hết sức thận trọng để khỏi bị theo dõi. Nếu có kẻ nào trông thấy chúng ta cùng đi săn lùng với nhau, hắn sẽ đánh hơi ngay ra một, vụ làm ăn mới.
- Đồng ý về sự thận trọng tối đa, – Kennedy đáp lại, – Có xa không?
- Vài cây số – Không quá xa đế đi bộ tới chứ?
- Ồ không! Ta có thể dễ dàng đi tới đó.
- Vậy thì tốt nhất là đi bộ. Một anh đánh xe ngựa sẽ nói lung tung nếu anh ta để chúng ta xuống một nơi hoang vắng vào nửa đêm.
- Rất đúng! Chúng ta sẽ gặp lại nhau lúc nửa đêm ở chỗ góc đường Appienne. Tôi phải về qua nhà để lấy diêm, nến và các đồ vật linh tinh.
- Tuyệt hảo, Burger ạ! Tôi nghĩ rằng anh đã rất hào hoa khi cho tôi biết điều bí mật của anh, và tôi xin hứa là sẽ không viết gì trước khi anh công bố bản tường trình. Bây giờ, chào tạm biệt! Anh sẽ gặp tôi lúc nửa đêm ở góc đường Appienne.
Không khí lạnh lẽo và trong trẻo vang vọng những tiếng chuông có nhạc điệu của cái thành phố lắm đồng hồ này khi Burger, quấn mình trong một chiếc măng tô kiểu Ý, tay mang một cây đèn, đi tới chỗ hẹn gặp.
Kennedy từ trong bóng tối đi ra trước mặt anh.
- Hăng hái trong công việc cũng như trong tình yêu! – Anh chàng người Đức kêu lên và cười lớn.
- Đúng. Tôi đã tới đây từ gần nửa tiếng đồng hồ.
- Tôi hy vọng là anh đã không nói với ai một mảy may nào về mục đích cuộc hành trình của chúng ta chứ?
- Không ngu như vậy đâu! Xin thề có trời, tôi bị lạnh buốt thấu xương đây này! Đi thôi , Burger, ta hãy đi bộ một lúc cho ấm người.
Họ đi những bước đều trên mặt đường đá, con đường này là tất cả những gì còn lại của một đại lộ nổi tiếng nhất trên thế giới. Một vài người nông dân từ trong quán nhậu đi ra để trở về nhà; có những chiếc xe đẩy chất đầy nông sản đi về phía thành Rome. Họ không gặp ai khác nữa. Ở bên phải, ở bên trái của họ, những ngôi mộ lớn nổi bật lên trong bóng tối. Cứ như vậy họ đi mãi tới khu hầm mộ Saint Calixte, và ở phía trước mặt, họ nhìn thấy dưới ánh trăng đang lên cao hiện ra rõ ràng cái pháo đài lớn, hình tròn Cecilia-metella. Burger đặt một bàn tay lên hông và dừng lại.
- Chân anh dài hơn chân tôi, và anh là người đi bộ giỏi, – anh nói và cười lớn. – Tôi nghĩ rằng chỗ mà chúng ta phải tách ra làm hai ngả cũng không xa đây. Phải, chúng ta tới nơi rồi, sau cái quán ăn, nhìn kìa, đường không rộng lắm; đế tôi đi trước; anh bước theo tôi.
Anh ta đốt đèn lên, con đường chật hẹp, khúc khuỷu chạy vòng vèo giữa các bãi lầy của miền Campanie. Cái cống nước lớn của thành La Mã cổ xưa nằm yên như một con sâu khổng lồ trên cảnh vật dưới ánh trăng. Hai người đi qua dưới một vòm cao và đi men theo bức tường vòng tròn, tường này đánh dấu vị trí của đấu trường cổ xưa. Sau cùng Burger dừng lại trước một cái chuồng bò nằm chơ vơ giữa đồng quê bát ngát, rồi anh móc trong túi ra một cái chìa khóa.
Kennedy kêu lên:
- Anh không làm cho tôi tưởng rằng các hầm mộ của anh nằm bên trong một căn nhà chứ!
- Có chứ, lối vào. Đây là những thứ bảo vệ cho chúng ta chống lại bọn tò mò.
- Ông chủ nhà có biết chuyện này không?
- Không, ông ta có tìm thấy một hai vật mà tính chất của chúng làm cho tôi nghĩ rằng cái chuồng bò này đã dược xây cất ngay bên trên một lối vào của những hầm mộ. Do đó tôi đã thuê cái chuồng bò và tự tay tôi đã tiến hành việc đào bới. Vào đi, và hãy đóng cửa lại nhé…
Hai người đang ở trong một tòa nhà dài và trống rỗng, những cái chậu và những cái máng treo trên một trong các bức tường. Burger đặt cái đèn xuống đất và lấy áo măng tô che nó lại, trừ một phía đế hở.
Anh nói:
- Nếu có kẻ nào nhìn thấy ánh đèn trong chỗ hẻo lánh này thì những cái miệng tha hồ mà mách lẻo. Chỉ cần anh giúp tôi khiêng các tấm ván này ra…
Những tấm ván ở một góc đã được gỡ đinh ra; hai nhà khảo cổ lần lượt dựng chúng vào tường. Trước mặt họ hiện ra một lỗ vuông, bên trong lỗ đó có một cầu thang với các bậc bằng đá cũ kỹ dẫn xuống phía sâu thẳm của lòng đất.
- Cấn thận? – Burger nói lớn với Kennedy trong khi anh chàng này quá nôn nóng bước ngay xuống mấy bực đầu tiên. – Dưới đó là một cấm địa thật sự đó: nếu anh đi lạc thì có đến một trăm phần trăm rủi ro là không bao giờ anh tìm ra đường về nữa. Hãy đợi tôi mang đèn tới.
- Nếu quả là nó rắc rối như vậy thì làm thế nào mà anh chỉ có một mình tự ra vào được?
- Lúc đầu có nhiều lần suýt nữa tôi đã bị lạc, nhưng rồi tôi học cách nhận ra lối đi. Cái mê cung này đã được kiến tạo theo một sơ đồ khá rõ ràng, nhưng kẻ nào đi lạc mà không có đèn thì không tài nào tìm thấy đường ra. Ngay cả bây giờ tôi còn phải thả một cuộn dây phía sau khi tôi đi sâu xuống. Trông kìa, mỗi hành lang này được phân ra và còn phân ra nhỏ hơn hàng chục lần, mỗi lần hàng trăm thước…
Ở sáu hay bảy thước phía dưới sàn chuồng bò, họ tới một căn phòng vuông khoét vào đá vôi mềm. Ngọn đèn chiếu ra một ánh sáng nhỏ lung linh trên các vách tường màu nâu đã rạn nứt hết. Ở tất cả mọi phía đều hiện ra những hành lang tối om đi từ cái ngã tư này.
- … Anh phải theo sát bên tôi, anh bạn – Burger ra lệnh – Chớ có dừng bước để nhìn một vật gì trên đường đi, vì tôi sẽ dẫn anh tới một nơi mà anh sẽ trông thấy nhiều thứ hơn là tất cá những thứ anh có thể thấy trong các hành lang. Nếu ta đi thắng tới đó thì ta sẽ tiết kiệm được thì giờ.
Anh đi vào một trong các hành lang. Anh chàng người Anh đi theo sát gót. Cứ một lúc là cái hành lang lại tẻ ra làm hai lối, nhưng Burger không dừng chân và cùng không bao giờ ngần ngừ: đúng là anh đã có những dấu bí mật làm tiêu điểm. Suốt dọc các bức tường, chồng chất lên nhau như những giường ngủ trên một con tàu của các dân di cư, những người Cơ đốc giáo của La Mã cổ xưa nằm yên nghỉ. Ánh sáng vàng vọt của cái đèn soi rõ những khuôn mặt nhăn nhúm của những xác ướp, làm óng ánh những cái sọ tròn và những cánh tay dài và trắng bắt chéo trên những bộ ngực trơ xương. Kennedy phóng ra những cái nhìn đầy nuối tiếc và ham muốn về phía những hàng chữ nhiều vô số kể, những bình đựng tro cốt, những tranh ảnh trang trí, những quần áo, những đồ dùng vẫn nằm y nguyên như lúc những bàn tay sùng tín đã đặt chúng ở đó hàng nhiều thế kỷ trước. Ngay lúc vừa nhìn thấy, anh đã nghĩ chắc chắn rằng đây là những hầm mộ của một sự giàu sang hiếm có chứa đựng một số lượng rất lớn những di tích của thời đế quốc La Mã.
- Những cái đèn của anh tắt đi thì làm sao? – Anh hỏi trong khi họ vội vã đi tới nơi mà Burger đã chỉ.
- Tôi có một cây nến để dự phòng và một bao diêm trong túi. À, anh Kennedy, anh có mang theo diêm không?
- Không. Anh phải cho tôi vài que mới được.
- Ồ, có gì đáng kể? Không vì lý do nào mà chúng ta phải rời xa nhau.
- Chúng ta sẽ đi tới đâu? Tôi thấy hình như chúng ta đã đi khoảng bốn trăm thước rồi, phải không?
- Tôi nghĩ rằng nhiều hơn thế. Những dãy mộ này dài vô tận… ít nhất là tôi chưa thấy chỗ tận cùng của nó. Nhưng vì bây giờ chúng ta đi tới một chỗ ngoắt ngoéo tôi phải thả cuộn dây ra.
Anh buộc một đầu sợi dây vào ruột hòn đá nhô ra rồi nhét cuộn dây vào bên trong áo măng tô và cứ bước tới đâu thì nhả nó ra tới đó. Kennedy nhận thấy sự thận trọng này không phải là vô ích, vì các lối đi mỗi lúc càng phức tạp thêm tạo thành một mạng lưới những con đường luôn luôn cắt ngang nhau. Nhưng tất cả mọi con đường đều dẫn tới một cái phòng lớn hình tròn, ở cuối phòng này có một cái bệ vuông mà một bên được che kín bằng một phiến cẩm thạch.
- Chúa ơi! – Kennedy kêu lên trong niềm sảng khoái – Đây là một bàn thờ của người Cơ đốc: không chừng là cái bàn thờ cổ xưa nhất. Cây thánh giá nhỏ của lễ phong thánh được khắc trên góc này. Chắc chắn là cái phòng hình tròn này đã được dùng làm giáo đường!
- Đúng vậy! – Burger đáp lại – Nếu tôi có nhiều thì giờ, tôi sẽ chỉ cho anh thảy tất cả những cái xác được chôn trong các hốc dọc theo dãy tường: đó là xác của các vị giáo hoàng và giám mục đầu tiên của Giáo hội, cùng với các mũ mão, pháp trượng, y phục tôn giáo của các ngài. Này, chẳng hạn hãy nhìn cái xác kia xem…
Kennedy bước tới và ngắm nghía một cái đầu tái nhợt tỳ lên một cây pháp trượng đã nát thành bụi.
- Tuyệt diệu! – Anh thốt lên với một giọng nói vang dội cả những vách của khung vòm – Theo kinh nghiệm riêng của tôi, đây là việc có một không hai. Anh Burger, đem cái đèn gần lại đi: tôi muốn được xem tất cả những cái xác.
Nhưng anh chàng người Đức lại đi tới đầu bên kia của căn phòng và anh ta đứng ở giữa cái vòng ánh sáng vàng vọt.
- Anh có biết từ chỗ này tới cầu thang có bao nhiêu chỗ rẽ làm ta lầm lạc không? – Anh ta hỏi – Hơn hai ngàn chỗ! Chắc chắn đó là một trong các phương tiện mà những người Cơ đốc đã dùng để tự bảo vệ cho họ. Giả dụ là ở chỗ này một người có mang đèn đi nữa thì anh ta cũng chỉ có cơ may một phần trên hai ngàn là sẽ tìm được lối ra. Và nếu không có đèn thì còn khó hơn rất nhiều?
- Đúng vậy!
- Bóng tối thật kinh khủng! Đã có một lần tôi thử nghiệm nó. Ta hãy thử một lần nữa.
Anh ta cúi xuống gần cái đèn và ngay tức thì như có một bàn tay vô hình bưng kín hai mắt của Kennedy. Trước giờ phút này không bao giờ anh biết thế nào là bóng tối. Bây giờ thì anh có cảm tưởng là nó dính chặt vào anh, nó làm anh nghẹt thở, nó là một chướng ngại vững chắc ngăn cản không cho người anh cử động, bước đi. Anh dang hai tay ra để đẩy lui nó.
- Thế là đủ rồi, Burger! Cho lại chút ánh sáng đi.
Nhưng người bạn của anh bật cười lớn. Trong căn phòng hình tròn này, tiếng cười của anh ta giống như đồng thời phát ra từ mọi phía.
- Anh bạn Kennedy à, chắc anh khó chịu lắm phải không?
- Không sao, anh bạn ạ! Hãy đốt đèn lên đi!
- Thật là kỳ cục, Kennedy à. Nghe tiếng động tôi hoàn toàn không định được hướng anh đang đứng. Còn anh, anh có thể đoán được tôi đang ở chỗ nào không?
- Không. Tôi có cảm tưởng là anh đang đứng ở khắp mọi nơi chung quanh tôi.
- Nếu tôi không nắm lấy sợi dây thì tôi sẽ không biết phải làm thế nào để ra khỏi chỗ này.
- Tôi nghi ngờ về chuyện đó. Thôi đi, anh bạn, đánh lên một que diêm đi! Ta phải chấm dứt trò chơi kỳ cục này.
- Anh Kennedy này, hãy nói đi. Tôi nghĩ rằng có hai điều mà anh đặc liệt thích thú: sự mạo hiểm, và một trở ngại để vượt qua. Sự mạo hiếm sẽ là việc anh phải tìm một con đường để ra khỏi những hầm mộ này. Điều trở ngại sẽ là bóng tối và hai ngàn lối rẽ lúc nào cũng làm cho ta lầm lạc. Nhưng anh không cần vội vã; anh còn nhiều thì giờ mà. Khi anh dừng lại nghỉ, tôi mong rằng anh sẽ nghĩ một chút tới cô Mary Saunderson, và anh sẽ duyệt xét lại lương tâm xem anh có hoàn toàn chung thủy với cô ấy không.
Kennedy gầm lên.
- Đồ ác quỷ! Anh muốn nói gì đó?
Anh chàng người Anh chạy vòng quanh, vẽ ra những vòng tròn nhỏ, nhưng với hai bàn tay anh chỉ quờ thấy mà đêm.
- Tạm biệt – tiếng nói mỉa mai của Burger vang lên, lúc này anh ta dã đi một quãng xa, – Kennedy ạ, ngay cả sau khi đã nghe các sự việc anh kể lại, tôi thật sự vẫn không tin là anh đã xử sự đúng đắn với “cô gái trẻ” trong câu chuyện. Và tôi thấy hình như anh còn không biết một chi tiết nhỏ: tôi phải bổ sung vào chỗ thiếu sót dó. Cô Mary Saunderson đã hứa hôn với một gã sinh viên nghèo nàn không có gì xuất sắc lắm; gã ta tên là Julius Burger.
Ở một chỗ nào đó có tiếng sột soạt nghe không rõ ràng là tiếng gì, tiếng động nhẹ của một bàn chân vấp phải một hòn đá, rồi thì sự im lặng trở lại trong cái giáo đường Cơ đốc cũ kỹ này, một sự im lặng bất động và nặng nề bao trùm lên Kennedy như nước bao trùm lên một kẻ chết chìm vậy.
Hai tháng sau, bài báo ngắn sau đây được lần lượt đăng trên báo chí Âu châu.
“Một trong những sự phát hiện thú vị nhất trong những năm vừa qua có liên quan tới các hầm mộ mới ở La Mã, gần mạn Đông của các khung vòm nổi tiếng Saint Calixte. Sự tìm ra khu mộ địa quan trọng này, nơi cực kỳ phong phú về các dấu tích thời khởi đầu kỷ nguyên Cơ đốc, là nhờ vào nghị lực và sự tinh tế của tiến sĩ Julius Burger, nhà khảo cổ học trẻ tuổi người Đức là người đang chinh phục ngôi vị thứ nhất trong số các nhà bác học chuyên nghiên cứu về La Mã cổ xưa. Mặc dù đã là người trước nhất công bố bản tường trình về sự phát hiện này, hình như tiến sĩ Burger đã bị dẫn trước bởi một nhà sưu khảo kém may mắn hơn. Vài tuần lễ mới đây, ông Kennedy, một nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh đã đột nhiên biến mất khỏi căn hộ của ông tại chung cư Corso. Người ta đặt ra một liên hệ giữa sự mất tích của ông và một vụ tai tiếng mới đây là điều có thể làm cho ông rời khỏi Rome.
Bây giờ mới rõ rằng thật sự ông đã là nạn nhân của lòng hăng say về môn khảo cổ. Xác ông đã được phát hiện ở giữa các hầm mộ mới; qua tình trạng các bàn chân và đôi giày của ông, người ta biết chắc là ông đã phải đi bộ ngày này qua ngày khác trong các hành lang quanh co, là những thứ làm cho việc thám hiểm nơi mộ địa rất nguy hiểm. Với một sự khinh suất không thể tưởng tượng được, người quá cố đã đi vào mê cung này không có nến, không có diêm (ít nhất là theo những sự khám nghiệm đầu tiên) và cái chết của ông là hậu quả của sự liều lĩnh của ông. Điều làm cho câu chuyện buồn này thêm đau đớn hơn là việc tiến sĩ Julius Burger là bạn chí thiết của ông Kennedy. Sự vui mừng mà ông được hưởng một cách chính đáng về khám phá phi thường này đã trở thành u ám vì số phận khủng khiếp của người đồng nghiệp và bạn thân của ông.”