những không động viên, an ủi, mà mỗi khi gặp tôi, nó lại cải biên thơ của Byron và đọc ra rả:
- Ôi, sức mạnh của tình yêu! Nó có thể biến lừa thành người và biến người thành lừa.
Nó chế giễu mặc nó, tôi cứ nhe răng cười hì hì. Dù sao tôi cũng đã tự nhận điều đó và tôi vẫn nghĩ rằng khi yêu thực sự, tất cả đàn ông đều biến thành lừa hết ráo, đâu phải chỉ mình tôi.
Hải gầy vốn nổi tiếng là “vua trích dẫn”. Nó có một cuốn sổ tay trong đó chép dày đặc những câu danh ngôn đông tây kim cổ. Mỗi lần tranh luận về một vấn đề gì hoặc muốn châm chích ai, nó thường nhờ “thánh hiền” hỗ trợ. Vì vậy, tụi bạn trong lớp thường gọi nó là “nhà tư tưởng”. “Nhà tư
tưởng” sửa thơ Byron để chửi tôi là con lừa, tôi chẳng thèm động lòng nhưng đến khi nó dẫn lời của Karl Marx thì tôi tức điên ruột:
- Nếu tình yêu không phải từ cả hai phía, tức là nếu tình yêu của bạn không làm nảy sinh tình yêu đáp lại, nếu bạn yêu, nhưng không làm bản thân mình trở thành người được yêu thì tình yêu thì tình yêu của bạn là bất lực, và đó là nỗi bất hạnh.
Tôi đỏ mặt:
- Sao mày biết tình yêu của tao không làm nảy sinh tình yêu đáp lại?
Hải gầy giở luận điệu cũ rích:
- Thì mày chứng minh đi!
- Phải có thời gian chứ!
Nó búng tay:
- Tao cho mày một tuần.
Tôi nhăn nhó:
- Một tuần thì ăn thua gì!
- Sao lại không ăn thua? Để tao kiếm cho mày một tấm giấy mời xem phim, mày rủ nó đi.
Tôi so vai:
- Thôi, tao ngại lắm! Rủi nó từ chối thì sao?
Hải gầy trấn an tôi:
- Đừng sợ! Nếu mày rủ nó đi xem phim theo kiểu thông thường, có thể nó ngại. Nhưng đây là mày “tình cờ” có một tấm giấy mời hai chỗ ngồi. Nếu đi một mình thì thừa một chỗ cho nên mày rủ nó cùng đi cho vui. Hiểu chưa?
- Chưa hiểu!
Hải gầy nổi sùng:
- Chưa hiểu cái gì?
Tôi nuốt nước bọt:
- Vậy thì tao chứng minh được cái gì?
- Sao mày ngu quá vậy? Nếu nó chịu đi chung với mày tức là nó có yêu mày, còn nếu nó từ chối tức là mày outside!
Tôi trố mắt:
- Outside là sao?
Hải gầy nhìn tôi với vẻ láu lỉnh:
- Sao mày học mau quên quá vậy? Outside tức là bị ra rìa, tức là đứng ngoài cuộc, hiểu chưa?
Tôi chưa kịp trả lời, nó đã cười hì hì, nói thêm:
- Lúc đó, tao sẽ nhảy vô thế chỗ mày!
Tôi chìa cùi chỏ ra:
- Đừng hòng!
Nghĩ lợi nghĩ hại một hồi, cuối cùng tôi chấp nhận phương án của Hải gầy. Kiểm tra tình cảm bằng cách mời đi xem phim dù sao cũng văn minh lịch sự hơn kiểu “điền vào chỗ trống” hay “đánh dấu chéo vào ô thích hợp” như nó xúi tôi bữa trước.
Hai hôm sau, bỏ trong túi tấm giấy mời Hải gầy đưa, tôi đến gặp Việt An, rủ:
- Việt An đi xem phim không?
Việt An hỏi với vẻ thích thú:
- Phim gì vậy?
Tôi quảng cáo:
- Phim “Yesterday”! Hay lắm!
- Anh có vé không?
Chỉ đợi có vậy, tôi hí hửng chìa tấm giấy mời ra:
- Có đây! Giấy mời hai chỗ!
Việt An cầm tờ giấy, reo lên:
- Hay quá! Để tôi rủ Hồng Hoa đi chung cho vui!
Tôi không ngờ tình huống lại xoay ra như vậy, đành bấm bụng a dua theo:
- Ừ, Việt An với Hồng Hoa đi đi!
Như sực nhớ đến tôi, Việt An hỏi:
- Anh không đi hả?
Tôi cười gượng gạo:
- Tôi xem phim này rồi.
Tối đó, tôi ngồi học bài mà như ngồi trên đống lửa. Nghĩ đến chuyện đáng lẽ giờ này tôi đang ngồi cạnh Việt An trong rạp hát, tôi cứ tức anh ách. Buồn tình chẳng biết làm gì, tôi nắn nót chép lên bài học hai câu thơ của Nguyễn Bính:
- Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu!
Và ngồi ngâm tới ngâm lui cho tới khi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Về thất bại này, sau khi nghe tôi buồn rầu tường thuật lại, Hải gầy kết luận ngắn gọn:
- Vậy là tiêu!
Nó nói kiểu đó khác nào nó giết tôi.
Tôi lập tức phản đối:
- Tiêu sao được mà tiêu!
Hải gầy vẫn khăng khăng:
- Nó không chịu đi xem phim với mày tức là tiêu rồi chứ gì nữa!
Tôi chống chế:
- Nhưng Việt An đâu có biết tao định rủ nó đi xem phim. Nó tưởng tao đem cho vé.
Hải gầy bĩu môi:
- Thôi đi mày ơi! Tụi con gái nó đâu có ngây thơ như mày tưởng. Nó làm bộ phớt tỉnh Ăng-lê để nó cho mày outside đó thôi.
Tôi hừ mũi:
- Mày lúc nào cũng outside, outside, toàn trù ẻo không hà!
Thấy tôi bắt đầu nổi sùng, Hải gầy nhún vai:
- Tao chỉ nói vậy thôi. Còn mọi chuyện là do mày.
Tôi tặc lưỡi:
- Tao sẽ kiểm tra một lần nữa.
- Bằng cách nào?
Tôi nói với giọng quả quyết:
- Rủ đi xem phim! Lần này tao sẽ rủ đích danh!
Hải gầy nhìn tôi nghi ngờ:
- Dám không?
Tôi nóng mặt:
- Sao lại không dám! Mày kiếm cho tao một vé mời khác đi!
Hải gầy làm mặt hề. Nó đứng bật dậy và chập gót chân đánh “cộp” theo kiểu nhà binh:
- Sẵn sàng!
Bốn hôm sau, cũng với tấm vé mời trong túi, tôi lại đến gặp Việt An. Nhưng lần này, tôi đi bằng những bước chân đàng hoàng, vững chải và trang bị trong lồng ngực trái tim quả cảm của Spartacus.
Như những tiết học mẫu mực, tôi mở đầu “chiến dịch” bằng phần “kiểm tra bài cũ”:
- Việt An xem phim “Yesterday” thấy hay không?
- Hay, nhưng tôi không thích đoạn kết lắm.
Vì chưa xem phim này nên tôi không biết cái đoạn kết nó ra làm sao, bèn hỏi dò:
- Việt An không thích chỗ nào?
- Chỗ hai vợ chồng ra tòa ly hôn. Ban đầu họ yêu nhau ghê gớm mà cuối cùng lại không sống với nhau lâu dài được. Tình yêu như vậy nghĩ cũng buồn thật!
Việt An nói chuyện phim mà tôi cứ giật mình thon thót tưởng nó đang răn đe tôi. Để chứng tỏ mình khác xa cái thằng cha khốn nạn trong phim, tôi vung tay, hùng hổ:
- Yêu như vậy thì thà không yêu còn hơn!
Nói xong, tôi bỗng đỏ bừng mặt vì phát hiện ra tôi đang nói đúng cái câu mà hôm trước Hải gầy dùng để chế giễu “mối tình đơn phương” của tôi.
Không để ý đến sự lúng túng của tôi, Việt An mỉm cười hỏi:
- Chứ theo anh thì phải yêu như thế nào?
Tôi mím môi:
- Yêu là phải yêu cho đến già, đến khi nào chết thôi!
Việt An lườm tôi:
- Anh chỉ giỏi tài nói dóc!
Tôi gãi tai:
- Tôi nói thật đó! Nếu Việt An không tin thì…
- Thì sao?
- Thì rồi Việt An sẽ tin.
Việt An cười cười. Không biết nó có thấy cái “ý nghĩa thâm thúy” trong câu nói của tôi không!
Thấy không khí đã có vẻ thuận lợi, tôi khéo léo chuyển qua mục tiêu chính: kiểm tra tình cảm!
Phần đầu của cuộc “kiểm tra” diễn ra theo đúng kịch bản cũ:
- Việt An đi xem phim nữa không?
- Phim gì vậy?
- Phim “Hai người đàn ông trong thành phố”! Hay lắm!
- Anh có vé không?
- Có đây! Giấy mời hai chỗ!
Tôi chìa tấm giấy mời ra. Nhưng lần này không để Việt An kịp nói “để tôi rủ Hồng Hoa đi chung cho vui”, tôi đã lên tiếng trước:
- Tôi chưa xem phim này.
Tôi tin rằng trước “lý do chính đáng” của tôi, Việt An không thể vịn vào bất kỳ cớ gì để cho tôi outside lần nữa. Không ngờ Việt An lại nói, mặt nó tỉnh khô:
- Vậy anh rủ Hồng Hoa đi đi! Tôi xem phim này rồi!
Lời từ chối khéo của Việt An chẳng khác nào quả đấm thôi sơn giáng vào ngực tôi. Tôi cảm thấy choáng váng và trong nỗi cay đắng sững sờ, tôi đâm mất bình tĩnh và dại dột buột miệng:
- Xạo!
Việt An giật nẩy mình. Nó nhìn tôi chăm chăm:
- Anh có điên không?
Chưa thoát ra khỏi trạng thái bàng hoàng, tôi gật đầu một cách máy móc:
- Điên chứ!
Đến khi định thần lại, biết mình lỡ lời, tôi vội vàng đính chính:
- Không… không điên…
Nhưng Việt An đã không còn ở đó nữa.
Tôi đứng bần thần một hồi rồi quay lưng thất thểu bước đi, tay xé vụn tờ giấy mời ra làm trăm mảnh. Xé tờ giấy mời hay tôi xé mối tình tôi?
Như một người lính bại trận, tôi không dám đến gặp Hải gầy mà lủi thủi về nhà, leo lên giường đắp chăn nằm… nghiền ngẫm tình đời đen bạc.
Lát sau, tôi nghe có tiếng gõ cửa lốc cốc.
- Ai đó? – Tôi hỏi giọng ngán ngẩm.
Hải gầy thò đầu vào:
- Sao rồi? Thành công hay thất bại?
Lúc này, tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Tôi đang muốn được yên tĩnh, không muốn gặp bất cứ ai, Hải gầy tôi lại càng không muốn gặp. Tôi đã trốn nó thế mà nó lại lù lù dẫn xác tới. Thật khổ!
Tôi ngao ngán thở dài:
- Ngày mai tao kể cho nghe!
Biết tôi đuổi khéo nhưng Hải gầy cứ trơ ra. Nó lại còn nhe răng cười:
- Outside rồi hả?
Tôi đập chân xuống giường một cái “rầm”:
- Outside cái con khỉ! Mày cút giùm đi cho tao nhờ!
Thấy tôi nổi dóa, Hải gầy vội vã lui ra, miệng lẩm bẩm:
- Tiệu là vây!
Nó bỏ về gần ba mươi phút mà tôi vẫn chưa hiểu nó nói ba chữ kia là nhằm ý nghĩa gì. Không biết nó nói tiếng Miên hay tiếng Lào! Mãi đến khi ngồi dậy đi tắm, tôi mới chợt hiểu ra “tiệu là vây” tức là “vậy là tiêu”, và dù đang rầu thúi ruột tôi cũng phải phì cười. Cái thằng quỷ sứ!
Phần 4
Tiểu Li của tôi dễ thương hơn Việt An gấp một trăm lần. Dễ thương nhất là nó rất khờ, tôi “dụ” lúc nào cũng được, không như Việt An.
Chơi đi trốn đi tìm cũng vậy, Tiểu Li rơi vô “cạm bẫy” của tôi hoài.
Tôi nhắm mắt một hồi, nghe nó hú, liền mở mắt ra chạy đi tìm. Nhưng Tiểu Li trốn kỹ quá chừng. Tôi tìm tháo mồ hôi, sục sạo khắp các ngõ ngách, hốc hẻm vẫn chẳng thấy nó đâu. Y như nó chui đâu dưới đất.
Tìm cả buổi không được, tôi đứng giữa nhà, năn nỉ:
- Mày hú thêm một tiếng nữa đi!
Tôi mở mắt thao láo, miệng nhắc đi nhắc lại hai ba lần, Tiểu Li vẫn im re. Nhưng tôi vừa mới bước ra ngoài hiên đã nghe tiếng hú cất lên trong nhà.
Tôi liền ba chân bốn cẳng chạy vụt vào nhà và dáo dác dòm khắp nơi. Thậm chí tôi còn chui cả xuống gầm giường, bồ hóng dính đầy đầu, nhưng cũng chẳng tìm ra nó.
Chẳng lẽ kêu lên là mình chịu thua, tôi bèn nghĩ ra một mẹo. Tôi làm bộ ngã “oách” một cái giữa nhà và ôm giò hét ầm lên:
- Trời ơi! Gãy cẳng tao rồi!
Tiểu Li trúng kế ngay. Đang nấp trong tủ, nó tung cửa, nhảy ào ra, mặt mày thất sắc:
- Cái gì vậy?
Chỉ đợi có vậy, tôi chỉ tay vô người nó, miệng cười đắc thắng:
- Bắt được mày rồi nghen!
Tiểu Li vẫn chưa hiểu, nó cứ dòm lom lom xuống chân tôi, hỏi:
- Chân anh gãy chỗ nào đâu?
Tôi giơ chân lên:
- Gãy đâu mà gãy! Tao chỉ làm bộ cho mày chui ra thôi! Vậy là mày thua rồi hén?
Bấy giờ, Tiểu Li mới biết là mình bị mắc lừa. Nó giẫy nẩy:
- Em không chịu đâu! Anh ăn gian!
Tôi quắc mắt:
- Tao ăn gian hồi nào?
- Chứ gì nữa! Tự nhiên anh la lên là gãy giò!
- Tao có miệng tao muốn nói gì tao nói chứ! Mày nghe thì mày ráng chịu!
Cãi không lại tôi, Tiểu Li ngồi bệt xuống đất.
Tôi liếc nó:
- Mày nằm vạ phải không? Mày nằm vạ thì tao nghỉ chơi à!
Nghe tôi dọa nghỉ chơi, Tiểu Li hoảng hồn đứng bật dậy. Nó cầm tay tôi lắc lắc:
- Thôi, chơi tiếp đi!
Tôi hất tay nó ra, làm mặt giận:
- Tao không chơi nữa đâu! Ai bảo mày kêu tao ăn gian!
Tiểu Li làm hòa:
- Anh không ăn gian.
Nhưng mặc cho nó nói, tôi cứ quay mặt ngó lơ chỗ khác. Đợi cho nó năn nỉ cả chục lần, tôi mới chịu chơi tiếp.
Tiểu Li ham chơi là thế, vậy mà có một hôm tôi đợi hoài vẫn không thấy nó chạy qua rủ.
Cuối cùng, tôi phải ra đứng trước hiên, gọi vọng sang:
- Tiểu Li ới ời!
Tôi gọi hai, ba tiếng mới thấy nó ló mặt ra khỏi cửa. Tôi ngoắc:
- Qua đây chơi tạt lon!
Tiểu Li lắc đầu:
- Em phải làm toán! Lát nữa đi!
Tôi nheo mắt:
- Toán lúc nào làm chẳng được! Qua đây chơi với tao!
Nhưng Tiểu Li vẫn không nhúc nhích. Nó đứng trước cửa ngần ngừ dòm sang.
Thấy vậy, tôi giả vờ giận dỗi, nói lớn:
- Mày không qua thì tao chơi một mình.
Nói xong, tôi bước ra sân vẻ một vòng tròn rồi đặt cái lon vào chính giữa. Sau đó, tôi lùi ra xa và rút dép cầm tay. Tôi nhắm thật kỹ cái lon rồi vung tay ném mạnh. Chiếc dép bay “vù” một cái, đập xuống đất thật mạnh rồi bắn vọt ra xa. Bụi tung mù mịt nhưng cái lon vẫn đứng trơ trơ chỗ cũ.
Tiểu Li cười khúc khích:
- Gần vậy mà ném không trúng!
Tôi tảng lờ như không nghe thấy, lẳng lặng đi lượm chiếc dép.
Tôi lại đứng vào chỗ cũ, rùn người lấy thế và lại ném. Lần này, chiếc lon bị bắn tung đi và lăn lông lốc. Tiểu Li reo lên:
- Hay quá!
Lúc này, nó không còn đứng ngay trước cửa mà men ra ngoài mé hiên, sát về phía nhà tôi.
Tôi khẽ liếc nó và nói trổng trổng:
- Chơi thì ra chơi!
Từ nãy đến giờ xem tôi “biểu diễn”, Tiểu Li có vẻ háo hức muốn tham gia. Nó dợm chân tính chạy ra mấy lần nhưng cuối cùng kềm lại được:
- Em phải làm toán!
Thái độ “ù lì” của nó khiến tôi nổi sùng:
- Làm toán thì vô nhà đi, mày đứng đó làm gì?
- Em đứng coi chút xíu rồi em chạy vô liền.
Thấy không lay chuyển nó được, tôi đạp chân lên cái lon, hắng giọng:
- Mày nói xạo! Bữa nay còn nghỉ hè, toán đâu mà làm?
Nghe tôi bảo nó xạo, Tiểu Li “ứ” một tiếng trong cổ họng:
- Mẹ em ra toán cho em làm. Mẹ bảo sắp khai trường rồi, em phải ôn lại.
Tôi “xì” một tiếng:
- Trời ơi, tưởng gì! Ôn lại thì chừng nào ôn chẳng được!
Vừa nói tôi vừa nhìn thẳng vào mặt Tiểu Li. Thấy nó có vẻ nao núng, tôi bồi tiếp:
- Ra chơi chút xíu thôi! Còn toán để lát nữa làm!
Không đủ nghị lực để nấn ná thêm nữa, Tiểu Li chạy vụt ra. Nó nhe răng sún ra cười:
- Chơi chút xíu thôi nghen!
Tôi gật đầu:
- Ừ, chút xíu thôi!
Cái “chút xíu” của hai đứa tôi kéo dài từ sáng đến tận trưa. Tôi và Tiểu Li chơi quên trời quên đất.
Đến khi mẹ nó kêu:
- Tiểu Li ơi, về ăn cơm!
Nó mới hoảng hồn ù té chạy về nhà.
Chiều hôm đó, tôi thơ thẩn ngoài sân cả buổi, chẳng thấy Tiểu Li đâu. Tôi kêu tên nó mấy lần cũng chẳng nghe nó đáp lại.
Ngạc nhiên, tôi mon men qua nhà nó, đứng ngoài cửa sổ dòm vô.
Tiểu Li đang ngồi buồn xo trên đi-văng, nhác thấy tôi, nó tươi tỉnh hẳn lên và nhe răng cười.
Tôi hỏi, giọng thì thầm:
- Mày làm gì ở hoài trong nhà vậy?
- Hồi sáng em không làm toán, bây giờ bị phạt.
Vừa nói nó vừa dòm dáo dác chung quanh.
- Phạt sao? – Tôi tò mò hỏi.
- Mẹ bắt em ngồi trên đi-văng cho tới giờ cơm, không được bước chân xuống đất.
Tôi ngó láo liên:
- Mẹ mày đâu rồi?
Tiểu Li chỉ tay ra nhà sau:
- Mẹ em nấu cơm dưới bếp.
Tôi xúi:
- Mày chạy ra chơi lát chạy vô, mẹ mày đâu có biết.
Tiểu Li thè lưỡi:
- Không được đâu! Mẹ mà biết thì chết!
Thấy vì tôi mà nó bị phạt, bụng tôi đâm ra áy náy. Tôi hỏi:
- Tao vô nhà ngồi chơi với mày, mẹ mày có la không?
Tiểu Li cắn môi:
- Em không biết!
Tôi thở dài:
- Thôi, tao đứng đây dòm vô vậy! Mẹ mày lên thì tao chạy.
Tiểu Li cười khúc khích:
- Anh làm như ăn trộm!
Tôi cũng cười. Nhìn Tiểu Li loay hoay trên chiếc đi-văng, không dám thò chân xuống đất, tôi thấy thương thương nó thế nào. Từ khi chơi với Tiểu Li, đây là lần đầu tiên lòng tôi tự dưng “mềm” như bún!
- o O o -
Việt An cũng làm tôi mềm lòng, không những “mềm” mà còn… “nát” nữa.
Sau hai đợt “kiểm tra” thất bại, tự dưng tôi đâm ra thẫn thờ. Mỗi lần nghĩ đến Việt An, lòng tôi lại dậy lên một cảm giác buồn bã pha lẫn giận dỗi. Tôi ngâm thơ Xuân Diệu:”Hôm nay tôi đã chết trong người…” và thấy tay chân xụi lơ, y như chết thật!
Đã vậy, Hải gầy lại cứ đi theo tôi tò tò, hỏi gặng:
- Giờ sao mày?
- Sao là sao?
- Phải tính sao chứ?
Tôi bực mình, gắt:
- Tính cái con khỉ! Tao “chạy” rồi đó, mày nhào vô đi!
Nó cười hì hì:
- Mày còn chưa ăn thua, tao nhằm nhò gì!
- Nhằm nhò hay không kệ mày, còn tao thì tao xin “kiếu”!
Hải gầy trợn mắt:
- Giỡn hoài mày!
- Tao giỡn hồi nào!
Hải gầy vẫn không tin:
- Mày bỏ cuộc thật hả?
Tôi mím môi:
- Thật!
Hải gầy nhìn tôi lom lom. Ngồi im một hồi, nó nhún vai, nói trổng:
- Yêu mà tự ái!
Tôi vặc lại:
- Tao tự ái hồi nào?
Hải gầy khịt mũi:
- Chứ gì nữa!
Rồi nó dẫn lời của George Sand:
- Tự ái trong tình yêu chẳng khác gì vụ lợi trong tình bạn!
Lần này, tôi ngồi im không nói. Thấy tôi có vẻ chịu “tiếp thu”, Hải gầy làm tới:
- Tao nói có đúng không?
Không thể tránh né, tôi đành thở dài:
- Mày thử ở trong trường hợp tao coi! Quê thấy mồ!
- Thua keo này ta bày keo khác! Có gì phải quê!
Tôi chép miệng:
- Tao thấy sao khó quá!
Hải gầy lại dẫn lời của Nguyễn Bá Học để động viên tôi:
- Tình yêu khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Thấy nó sửa hai chữ “đường đi” thành “tình yêu” tỉnh bơ, tôi không nhịn được cười. Tôi hỏi nó:
- Hôm trước hễ mở miệng là mày bàn ra, sao hôm nay mày bàn vô hăng hái quá vậy?
Hải gầy ngẩn tò te:
- Tao cũng không biết nữa! Chắc là tại tao có cảm giác… Việt An yêu mày.
Tôi hừ mũi, chơi đòn “gậy ông đập lưng ông”:
- Mày dựa trên cơ sở khoa học nào?
- Tao đoán.
Tôi tiếp tục “phản kích”:
- Chuyện tình yêu không thể đoán mò được!
Hải gầy chẳng tỏ vẻ gì lúng túng. Nó nói tỉnh khô:
- Mày không biết gì hết! – đây không cần cơ sở khoa học gì ráo, chuyện tình cảm ta chỉ có thể cảm nhận bằng… trái tim thôi!
Cái thằng, nó quay 180 độ mà chẳng hề mắc cỡ tí ti! Tôi nhún vai:
- Mày là đứa không có lập trường.
Hải gầy nhe răng cười:
- Tao cần quái gì lập trường! Mày thành công là tao vui rồi!
Tôi bĩu môi:
- Tốt quá hén!
Hải gầy gật gù:
- Tao nói thật đấy! Bắt đầu từ ngay mai tao sẽ “nghiên cứu” tình cảm của Việt An. Tao sẽ nắm bắt những tín hiệu nó phát ra để “tham mưu” cho mày.
Mặc dù thừa biết Hải gầy là chúa ba hoa nhưng thấy nó nhiệt tình sát cánh bên tôi trong lúc “hiểm nghèo” và nhất là nghe câu nói êm ái “Việt An yêu mày” của nó, lòng tôi tự nhiên ấm ám và “khí thế” hẳn lên.
Thấy tôi chấp nhận nghề “thầy dùi” của nó, Hải gầy khoái lắm. Nó hào hứng vạch một “chương trình hành động” dài dằng dặc và đầy quyến rũ. Nào là những lúc tôi lên bảng trả bài, nó sẽ quan sát ánh mắt của Việt An, coi thử Việt An chớp mắt mấy lần và nhìn trộm “dung nhan” tôi mấy cái, mỗi cái kéo dài mấy phút; nào là những lúc tôi trò chuyện với Việt An, nó sẽ rình coi Việt An có cười với tôi không, cười mấy kiểu, cười “lạnh lùng” hay cười “ấm áp”, rồi khi Việt An cười, nó còn phải nhận xét miệng và mắt có “phối hợp đồng bộ” không, hay là miệng như hoa tươi mà mắt như hoa… héo. Căn cứ vào những “tư liệu” quí giá và sống động đó, nó sẽ phân tích và rút ra những kết luận có giá trị để vạch đường đi nước bước cho tôi.
Sai khi công bố dự định lớn lao và đầy hiệu quả (trên lý thuyết) của mình, Hải gầy kết luận thật “ngọt”:
- Mọi chuyện sẽ đâu vào đấy! Cái gì của César phải trả lại cho César, Việt An của mày thì phải trả lại cho… tao!
Tôi nhăn mặt:
- Giỡn vô duyên!
- Xin lỗi, tao lộn! – Hải gầy bá vai tôi, cười hề hề.
Nhưng đúng như ông bà...