lắm ) nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho tôi thế.
Nhưng xem kỹ lại lờI thư thì không phải vậy.
Hay là? Tôi nhớ có đọc một tiểu thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn để
chết.
Nhưng cũng không phảI. Oanh có học, dư biết bịnh lao không hoàn toàn tuyệt vọng (2) , thì dại gì nàng phảI làm như vậy.
Mà nàng tự tử hay trốn đi đâu? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt lì, tôi xin nghỉ phép nữa.
Oanh ngườI Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó. Tôi vừa vào tớI sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.
- Con ơi, vợ con nó đã chết rồi à ! Ơ…..Ơ.. trời ơi là trời , con tôi chết.
Chúng tôi không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế mà nay bà cụ lạI ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội lỗI gì đối với tôi cả.
Tôi chỉ ngậm câm , khóc không được mà nói cũng chẳng ra lời.
Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà cụ khóc kể một hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt Nam bao giờ cũng vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho chồng con, cho khách khứa Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu Ông cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.
Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn, ông cụ mới mở miệng:
- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng, thật xa. Nó căn dặn tôi với mẹ nó hễ …. con đến – ông cụ ngập ngừng trước tiếng “con “, ngại thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng ấy- hễ con đến thì nên giấu biệt chỗ trú ẩn của nó. Ngỡ như vậy là xong , nào dè mấy hôm sau thì nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.
Bấy giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.
Khóc cạn lệ tôi mới hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy.
- Con yêu nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn…..
- TrờI ! Tôi kêu thầm – Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó , ba đời liền , không thấy ai có bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế hệ lìên rồi mới xuất hiện trở lại.
Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay nó bị truyền nhiễm do người ngoài không biết chừng , vì không nghe nói ông bà hồi trước có ai bị phong đơn.
Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn cứ nổi lên: da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo nên con không thấy.
Về sau , nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên sinh. Cái ngày mà nó viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ sau một bữa ăn cua đinh.
Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng thuốc xanh trộn vời dầu chùm bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống, nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè như đã nhúng chàm ,đánh phấn thế nào cũng chẳng lấp được cả.
Sở giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên nghĩ dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổI trở lên, lần này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.
Thế là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con , rồI lùi về đây.
Mấy ngày ở trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó , nên trong một lúc tuyệt vọng kia , nó hủy mình Trời ơi, bấy giờ tôi mớI hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được tạI sao nàng bảo là nàng ích kỷ.
Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí hình ảnh tươi đẹp của nàng , y như ngườI quí phi bên Tàu ngày xưa cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc nàng đã tiều tụy sau một trận ốm nặng.
Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu. Nàng chỉ thương tôi thôi, muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.
Lâu kính nể sự yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao giống như các điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị ngày xưa.
- Anh thấy không. Niệm tiếp, làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở ấy. Nó có tàn rụng sau một thờI ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút nầy, tôi nghe vẫn còn yêu Oanh , còn nghe như Oanh còn sống đâu đó. Tuổi tôi cứ chồng chất lên , nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là học sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.
Chúng tôi day lưng dòm vào phòng ngủ thì, qua lướI mùng “tuyn”, các cậu học sanh già đang yên giấc, ngáy pho pho.
Ánh đèn chong xanh xanh gợI lên hình ảnh huyền hoặc của một thế giớI ma quái mà trong đó hồn ngườI xưa như đang rung rinh bay qua bay lại, hồn những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất tình, bịnh tật, chiến tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.
Dưới sân đen ngòm , nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.
Những bóng ma của dĩ vãng !.