KAIO.PRO - Hệ thống Bán Vàng, Ngọc Xanh, Đồ Item Tự Động 100% của GameHub.Pro
Văn Mẫu Lớp 11 : Phú sông Bạch đằng Trương Hán Siêu
Trương Hán Siêu, tác giả bài Phú sông Bạch đằng nổi tiếng là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba.
Phú sông Bạch đằng Trương Hán Siêu
Ông làm quan trải bốn triều vua Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông), từng giữ các chức Hàn lâm học sĩ, Hành khiển, Tả gián nghị đại phu, Tham tri chính sự. Trương Hán Siêu là một người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng yêu nước và có nhiều công lao đối với triều Trần, vì vậy ông được các vua Trần tôn kính, xem như bậc thầy. Sau khi mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang với các bậc hiền triết xưa. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam vào giai đoạn nửa sau thế kỷ XIV nảy sinh cuộc tranh giành vị trí, ảnh hưởng giữa Nho giáo và Phật giáo mà Trương Hán Siêu được coi là người đầu tiên lên tiếng phê phán đạo Phật, mở đường cho Nho giáo tiến lên.
Bạch Đằng Giang phú là một kiệt tác trong văn chương cổ Việt Nam. Về mặt nghệ thuật, đây là tác phẩm thể hiện đỉnh cao của tài hoa viết phú. Về nội dung tư tưởng, Bạch Đằng Giang phú là áng văn tràn đầy lòng yêu nước, tráng chí chất ngất, cùng tinh thần tự hào dân tộc và hàm chứa một triết lý lịch sử sâu sắc khi nhìn nhận nguyên nhân thành công của dân tộc trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.
Bạch Đằng giang phú – Bản diễn Nôm :
Khách hữu:
Quải hãn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triều kiết huyền hề Nguyên Tương,
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu Giang Ngũ Hồ,
Tam Ngô Bách Việt.
Nhân tích sở chí,
Mi bất kinh duyệt,
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách,
Nhi tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu, tòng tử trường chi viễn du.
Thiệp đại than khẩu, tố đông triều đầu, để Bạch Đằng giang, thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế, trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô, sắt sắt sưu sưu.
Chiết kích trầm giang, khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc, trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng, thán tông tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão vị ngã hà cầu?
Hoặc phò lê trượng, hoặc trạo cô chu,
Tiếp dư nhi ngôn viết:
Thử trọng hưng nhị thánh cầm Ô Mã Nhi chi chiến địa, dữ tích thì Ngô chủ phá Lưu Hoằng Tháo chi cố châu dã.
Đương kì:
Trục lô thiên lý, tinh kì ỷ ni.
Tì hưu lục quân, binh nhận phong khởi, thư hùng vị quyết, nam bắc đối lũy.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang, thiên địa lẫm hề tướng hủy.
Bỉ tất liệt chi thế cương, Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên, khả tảo nam kỉ.
Kí nhi : hoàng thiên trợ thuận, hung đồ phi mi.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư, đàm tiếu phi hôi.
Phục Kiên Hợp Phì chi trận, tu du tống tử.
Chí kim giang lưu, chung bất tuyết sỉ.
Tái tạo chi công, thiên cổ xưng mĩ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ, cố hữu giang sơn.
Tín thiên tiệm chi thiết hiểm, lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội, ưng dương nhược lã.
Duy thủy chi chiến, quốc sĩ như hàn.
Duy thử giang nhi đại tiệp, do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng, khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết: \"đại giang hề cổn cổn, hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận. nhân nhân hề văn danh, phỉ nhân hề câu mẫn.\"khách tòng nhi canh ca viết: \"nhị thánh hề thùy minh, tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri:
Bất tại quan hà chi hiểm hề, duy tại ý đức chi mạc kinh.
Bản dịch của Đông Châu :
(Khảo về địa-dư và lịch-sử tỉnh Quảng-Yên (Nam-phong tạp-chí, tập XIV số 8, tháng 6-1924).)
Khách có kẻ:
Chèo bể bơi trăng, buồm mây giang, gió. Sớm ngọn Tương kia, chiều hang Vũ nọ.
Vùng vẫy Giang, Hồ: tiêu dao Ngô, Sở. Ði cho biết đây, đi cho biết đó. Chằm Vân-mộng chứa ở trong kho tư-tưởng, đã biết bao nhiêu, mà cái trí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở!
Mới học thói Tử-trương:
bốn bể ngao du. Qua cửa Ðại-than sang bến Ðông-triều, đến sông Bạch-Ðằng, đứng đỉnh phiến-chu. Trắng xóa sông kềnh muôn dặm, xanh rì dặng ác một màu. Nước trời lộn sắc, phong cảnh vừa thu. Ngàn lau quạnh cõi, bến lách đìu-hiu. Giáo gậy đầu sông, cốt khô đầy gò. Ngậm ngùi đứng lắng ngắm cuộc sống phù du. Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá, mà đây dấu vết hãy còn lưu.
Kia kìa, bến sông, phu lão người đâu. Lượng trong bụng ta, chứng có sở cầu. Hoặc gậy trống trước, hoặc thuyền bơi sau.
Vái tạ mà thưa rằng:
Đây là chỗ chiến địa vua Trần bắt giặc Nguyên, và là nơi cố-châu của vua Ngô phá quân Lưu đây.
Đương khi:
muôn đội thuyền bày, hai quân giáo chỉ. Gươm tuốt sáng lòe, cờ bay đỏ khí! Tướng Bắc quân Nam đôi bên đối lũy. Đã nổi gió mà bay mây, lại kinh thiên mà động địa. Kìa quân Nam-Hán nó mưu sâu, nọ Hồ-Nguyên có sức khỏe. Nó bảo rằng: phen này đạp đổ nước Nam, tưởng chừng có dễ.
May sao:
Trời giúp quân ta, mây tan trận nó, khác nào như quân Tào Tháo bị vỡ ở sông Xích-bích khi xưa, giặc Bồ Kiên bị tan ở bến Hợp-phù thuở nọ. Ấy cái nhục tày trời của họ, há những một thời, mà cái công tái tạo của ta lưu danh thiên cổ.
Tuy vậy, từ thuở có trời có đất, vẫn có giang-san. Trời đặt ra nơi hiểm-trở, người tính lấy cuộc tồn-an. Hội này bằng hội Mạnh-tân, như vương-sự họ Lã; trận nào bằng trận Dung-thủy, như quốc sĩ họ Hàn. Kìa trận Bạch-Đằng này mà đại-thắng, bởi chưng Đại-vương coi thế giặc nhàn. Tiếng thơm còn mãi, bia miệng hao mòn. Nhớ ai sa giọt lệ, hổ mình với nước non!
Rồi vừa đi vừa hát rằng:
Sông Đằng một dải dài ghê!
Cuồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Trời Nam sinh kẻ anh hùng.
Tăm kềnh yên lặng, non sông vững-vàng
Khách vừa đi vừa hát rằng:
Vua Trần hai vị Thánh-quân.
Sông kia còn dấu tẩy trần giáp-binh
Nghìn xưa gẫm cuộc thăng-bình.
Tài đâu đất hiểm, bởi mình đức cao.
Bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến và Bùi Văn Nguyên :
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt
Cửu Giang, Ngũ Hổ
Tam ngô, Bách Việt
Nơi có người đi
Ðâu mà chẳng biết
Ðầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo
Học Tử Trường chừ thú tiêu diêu
Qua cửa Ðại Than
Ngược bến Ðông Triều
Ðến sông Bạch đằng
Rong chơi mái chèo
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Bập bềnh đuôi trĩ liền nhau
Nước trời: một sắc
Phong cảnh: ba thu
Ngàn lau xào xạc
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm
Ðứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá?
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bên sông, bô lão hỏi ta sở cầu
Có kẻ gậy lê chống trước
Có người thuyền nhẹ bơi sau
Vái ta mà thưa rằng:
- Ðây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị thánh bắt Ô Mã
Cũng là bãi đất xưa Ngô Chúa phá Hoằng Thao
Ðương khi ấy:
Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới
Tì hổ ba quân
Gíao gươm sáng chói
Trận đánh thư hùng chửa phân
Chiến lũy Bắc Nam chống đối
ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi
Kìa! Tất Liệt thế cường
Lưu Cung chước dối
Những tưởng gieo roi một lần
Quét sạch Nam bang bốn cõi
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người
Hung đồ hết lối
Khác nào như khi xưa :
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hòan tòan chết rụi
Ðến nay nước sông tuy chảy hòai
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi
Tái tạo công lao
Nghìn thu ca ngợi
Tuy nhiên;
Từ có vũ trụ
Ðã có giang sanh
Qủa là trời đất cho nơi hiểm trở
Cũng nhờ nhân tài giữ được điện an
Hội nào bằng Hội Mạnh Tân, có vương sư họ Lã
Trận nào bằng trận Duy Thủy, có quốc sĩ họ Hàn
Kìa trận Bạch đằng mà đại thắng
Bởi Ðại vương coi thế giặc nhàn
Tiếng thơm đồn mãi
Bia miệng không mòn
Khách chơi sông chừ ủ mặt
Người hòai cổ chừ lệ chan
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Ðằng một dãi dài ghê
Luồng to sóng lớn tuôn về bể Ðông
Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan, muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao
• Bài Viết Cùng Chủ Đề