* KAIO.PRO - Hệ thống Bán Vàng, Ngọc Xanh, Đồ Item Tự Động 100% của GameHub.Pro
* Shop bán Vàng, Ngọc Xanh tự động

Văn Mẫu Lớp 11 : Tác phẩm văn học: Tràng Giang - Huy Cận

TÁC PHẨM VĂN HỌC: TRÀNG GIANG - HUY CẬN

A. DÀN Ý
I. Tác giả, tác phẩm:1. Tác giả: Huy Cận là nhà thơ lớn, một trong những đại biểu xuất sắc của phong trào thơ mới với hồn thơ ảo não
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí
2. Tác phẩm:- Xuất xứ : rút từ tập Lửa thiêng(1939) - Nhan đề : so sánh tên gọi Tràng giang với Trường giangII. Nội dung, nghệ thuật của bài thơ :- Lời đề từ: Cảm hứng chủ đạo được tác giả nói rõ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài (H.C)
=> Toàn bộ cảm xúc chi phối cảm hứng sáng tác của tác giả chìa khoá để hiểu bài thơ. 1. Khổ thơ 1: Mở đầu bài thơ bằng cảnh sông nước mênh mông bất tận “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
- Điệp vần “ang” gợi lên sự mênh mông bất tận.
-Buồn “Điệp điệp” từ láy->gợi nỗi buồn miên man trải dài vô tận, không dứt.
->Câu thơ không chỉ nói sông, nước mà nói một nỗi buồn bất tận.
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
- Con thuyền là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, trôi nổi, vô định. Thuyền và nước chỉ song song với nhau mà không gắn bó với nhau. Thuyền đi với dòng để rồi chia li với dòng.
- Hình ảnh gợi sự chia lìa, rồi lại “củi một cành khô lạc mấy dòng”
-> Hình ảnh nhỏ bé mong manh, trôi nổi trên dòng sông, gợi liên tưởng đến kiếp người trôi nổi trên dòng đời vô định.
=> Khổ thơ vẻ lên một không gian bao la, vô định, rời rạc, hờ hững với một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh gợi cảm giác buồn mênh mông, mang tâm trạng thời đại. 2. Khổ thơ 2: Bổ sung vào bức tranh sông nước các hình ảnh bé bỏng trong trạng thái tàn rụi “lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa vãng chợ chiều” – xuất hiện âm thanh cuộc sống nhưng không làm cho cảnh vật bớt vắng vẻ mà càng làm cho bức tranh thiên nhiên càng mênh mang, hiu quạnh hơn ( âm hưởng của các từ láy lơ thơ, đìu hiu )– gợi một không gian tâm tưởng:
“ Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu …”
Câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc : mở ra một không gian đa chiều : ta như thấy sông thêm dài, trời thêm cao và rộng hơn, bến sông ấy như thêm cô liêu, con người càng thêm cô đơn, bé nhỏ, rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng. 3. Khổ thơ 3: - Hình ảnh “ bèo dạt về đâu hàng nối hàng” -> càng khắc sâu nỗi buồn về sự vô định, phó mặc, bất lực trước cuộc đời. Đây cũng là tâm trạng chung của các nhà thơ mới trong những năm ngột ngạt dưới thời thuộc Pháp.
- Điệp từ “ không” ( không cầu, không chuyến đò): gợi sự thiếu vắng , trống trãi, không có tín hiệu của sự giao hòa, thân mật – Dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người - khắc sâu ấn tượng về sự chia lìa, tan tác.
“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” -> thiên nhiên đẹp nhưng thiếu vắng hình dáng con người.
=> Nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mang trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. 4. Khổ thơ 4: Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và hồn thơ Huy Cận.
“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên.
“ Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” – thời gian đã biến chuyển, hoàng hôn buông xuống và cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà dễ gợi nỗi buồn xa vắng – nỗi buồn nhớ quê hương:
“ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
So sánh với hai câu thơ của Thôi Hiệu:
“ Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
Ta thấy với Huy Cận không cần có khói sóng trên sông vẫn nhớ quê nhà da diết -> Tình cảm quê hương sâu nặng, thường trực, cháy bỏng.
=> Đứng trước cảnh sông nước bao la, những đợt sóng xa bờ tít tắp, thi nhân như đang soi mình xuống dòng sông, thấm thía một nỗi buồn bơ vơ, lặng lẽ thả hồn mình về với quê hương.
=> Nét cổ điển mà hiện đại trong thơ Huy Cận. Nỗi nhớ da diết của một cái tôi lãng mạn. Đó chính là lòng yêu nước thầm kín của Huy Cận trước cảnh ngộ đất nước mất chủ quyền. III. Tổng kết1. Nghệ thuật: -Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại(sự xuất hiện của cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa và cảm xúc buồn mang dấu ấn cái tôi cá nhân...)
- Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm(lơ thơ, đìu hiu, chót vót..) 2. Ý nghĩa: Vẽ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn, niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết của tác giả Các dạng đề thi :Câu 1: Cảm nhận của anh chị về vẻ đẹp khổ thơ đầu trong bài \"Tràng giang\" của Huy Cận.
Câu 2:
Có ý kiến cho rằng Tràng giang là một bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại. Phân tích bài thơ để làm sang tỏ nhận định trên. Tràng giang là bài thơ có vẻ đẹp cổ điển. Vẻ đẹp này thể hiện ở nhiều phương diện:-Thể thơ (bảy chữ) chủ yếu với cách ngắt nhịp quen thuộc, tạo nên sự cân đối, hài hòa.
-Sự nhạy cảm của tác giả với cảnh tượng thiên nhiên bát ngát, không gian vô tận, hướng tới thời gian vĩnh hằng. -Cách thức miêu tả những bức tranh thiên nhiên (chỉ miêu tả một vài nét đơn sơ, chủ yếu ghi lại hồn cốt của tạo vật)
-Thi liệu.
-Âm điệu chủ đạo của bài thơ.
-Nỗi buồn của tác giả.
-Cách vận dụng sáng tạo lối diễn đạt và các ý có tỏng thơ cổ (chẳng hạn như ở các bài thơ Đăng cao của Đỗ Phủ, Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu).
-Vẻ đẹp trang nhã, thanh cao toát ra từ toàn bộ bài thơ…
Song, Tràng giang cũng là bài thơ hiện đại:
-Vận dụng thể thơ bảy chữ.
-Cách sử dụng thi liệu ( bên cạnh thi liệu cũ có thi liệu mới).
-Cách cảm nhận sự vật, khiến “cái buồn vời vợi dàn ra cho đến hư vô”Vì thế, Tràng giang đúng là một bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại.
B. BÀI VĂN THAM KHẢO
Đề bài: Phân tích bài thơ \"Tràng giang\" của nhà thơ Huy CậnBài làm Từ ngàn xưa, thiên nhiên đã trở thành niềm cảm hứng mãnh liệt khơi nguồn sáng tạo cho thi nhân. Ta đã từng gặp cảnh bồng lai trong thơ Lý Bạch, một vùng quê mộc mạc, tĩnh lặng trong thơ Nguyễn Khuyến, cảnh sơn thủy hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi. Đọc “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận – một nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới (1932 – 1945), ta bắt gặp cảnh mênh mông sóng nước; đồng thời ta cảm nhận được cái tôi buồn vời vợi, thương cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng
quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề “Tràng giang”, có nghĩa là sông dài, rộng, đồng thời điệp vần ang, góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho toàn bộ giọng điệu cả bài thơ. Ngay từ khổ thơ đầu, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ:“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng lăn tăn, lô xô nối nhau chạy tới vô tận. Với động từ gợn, kết hợp với từ láy điệp điệp, từ gợi cảm xúc thì những con sóng ấy trở thành những con sóng lòng. Đó chính là nỗi buồn đang lan tỏa trong lòng nhà thơ.
Trên dòng sông gợn sóng điệp điệp, nước song song ấy, là một con thuyền xuôi mái, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy sự lẻ loi, đơn chiếc của cảnh vật trong không gian mênh mông của thiên nhiên, của tràng giang dài và rộng vô tận đến nhường nào! Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài “Tràng giangyhIhH”, nghệ thuật đối đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu đối về ý, chứ không bị câu thúc về niêm, luật như cách đối trong thơ cổ: “Sóng – con thuyền”, “buồn điệp điệp – nước song song”. Điều này làm cho câu thơ thêm uyển chuyển, linh hoạt; mặt khác vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, cổ điển. Bên cạnh đó, nghệ thuật sử dụng từ láy điệp điệp, song song cũng có hiệu quả nhất định, tạo nên âm điệu cổ kính.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận; nỗi buồn của con người cũng đầy ắp trong lòng:“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách thuyền về nước lại, nghe sao đầy xót xa! Chính vì thế mà gợi lên trong lòng người nỗi sầu trăm ngả. Từ chỉ số nhiều trăm hô ứng cùng từ chỉ số mấy đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. Từ nỗi buồn hóa nỗi sầu, rồi nỗi sầu ấy lan tỏa đi trăm ngả. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Đây là một câu thơ rất độc đáo. Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với những từ ngữ chọn lọc, thể hiện nỗi cô đơn, lạc lõng giữa vũ trụ bao la. Một gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé; cành khô gợi lên sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống. Lạc mang nỗi sầu vô định, trôi nỗi, bập bềnh trên mấy dòng nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. Nét đẹp cổ điển tả cảnh ngụ tình thật khéo léo, tài hoa của tác giả đã gợi tả nỗi buồn u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó, ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện tại rất thú vị của khổ thơ. Đó là cách nói củi khô một cành thật đặc biệt không chỉ thâu tóm toàn bộ cảm xúc của toàn khổ mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một niềm đơn côi, lạc lõng; kiếp người nhỏ bé, lẻ loi đang nổi trôi vô định giữa dòng đời.
Khép lại khổ một, người đọc phần nào đã cảm nhận được nỗi lòng của nhà thơ. Sang khổ thơ thứ hai, cảnh vật được mở rộng hơn, được điểm thêm bằng các chi tiết cồn nhỏ, gió, làng xa nhưng vẫn mang một nỗi buồn khó tả:“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong Chinh phụ ngâm:“Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Hai từ lấy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo léo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Lơ thơ gợi sự ít ỏi, bénhỏ; đìu hiu lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh cồn nhỏ, gió thì đìu hiu, một khung cảnh lạnh lẽo tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp đến độ thốt lên đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Câu thơ lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu, chợ chiều đã vãn nên không còn nghe thấy một âm thanh nào nữa, cũng có thể là những âm thanh của một buổi chợ chiều đã vãn từ xa nên rất nhỏ. Nhưng dù theo cách hiểu nào thì âm thanh đó và hình ảnh chợ chiều đã vãn cũng gợi lên một nét buồn.
Đôi mắt trữ tình của nhà thơ đã trải rộng, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn xa:“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Đây là câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng theo nhiều chiều cao, rộng, sâu. Ở đây, có cách kết hợp rất độc đáo, không phải cao chót vót mà là sâu chót vót, từ sâu gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng. Chót vót khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Vì nắng xuống nên khoảng cách giữa dòng sông và bầu trời càng xa hơn. Không gian càng rộng, càng xa, càng sâu thì cảnh vật càng trở nên vắng lặng, chỉ có sông dài với bến lẻ loi, cô đơn. Nỗi buồn dường như thấm vào cả không gian. Con người trở nên nhỏ bé, lẻ loi trước không gian rộng lớn và thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh). Bên cạnh đó, vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi, có tác dụng làm cho người đọc nhận thấy mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào trong giá lạnh và cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả lại sự khao khát ấy bằng những hình ảnh quạnh quẽ, đìu hiu:“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh quen thuộc, thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là hàng nối hàng. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợp ngợp trước cảnh thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, càng cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là bờ xanh tiếp bãi vàng như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường như không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết:“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định ...không...không để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo léo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”
Bút pháp chấm phá với mây cao đùn đùn núi bạc thành lớp lớp đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ đùn, khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Chính vì vậy, hình ảnh cánh chim xuất hiện nhỏ bé, lẻ loi chao nghiêng trong bóng hoàng hôn là tín hiệu thẩm mĩ trong thơ cổ điển, nó báo hiệu trời về chiều gợi nỗi buồn xa vắng; nhưng ở đây hình ảnh này còn là biểu tượng của cái tôi nhỏ bé, cô độc giữa cuộc đời.
Giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Dợn dợn là từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ vời con nước cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của lòng quê. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của các nhà Thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu vần vịnh vào sóng để mà buồn mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi tự nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như mây, sông, cánh chim,...và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của Thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan tỏa qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như câu sâu chót vót, dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được; khác hẳn với cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ.

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất Huy Cận, với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

Facebook Google Plus

• Bài Viết Cùng Chủ Đề
Văn Mẫu Lớp 11 : Vài nét khái quát về cuộc đời, sự nghiệp thơ văn của Phan Bộ Văn Mẫu Lớp 11 : Vài nét khái quát về cuộc đời, sự nghiệp thơ văn của Phan Bộ
Văn Mẫu Lớp 11 : Phân tích tác phẩm Chiều tối của Hồ chí Minh Văn Mẫu Lớp 11 : Phân tích tác phẩm Chiều tối của Hồ chí Minh
Văn Mẫu Lớp 11 : Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (Số 2) Văn Mẫu Lớp 11 : Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (Số 2)
Văn Mẫu Lớp 11 : Hình ảnh mùa xuân trong tác phẩm Vội Vàng và Mùa Xuân Chín Văn Mẫu Lớp 11 : Hình ảnh mùa xuân trong tác phẩm "Vội Vàng" và "Mùa Xuân Chín"
Văn Mẫu Lớp 11 : Nguyễn Khuyến - Nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam Văn Mẫu Lớp 11 : Nguyễn Khuyến - Nhà thơ của quê hương, làng cảnh Việt Nam

Quy định sử dụng | Thông tin liên hệ
Thế Giới Giải Trí Di Động
© 2017 Tai Game Java DMCA.com Protection Status