* KAIO.PRO - Hệ thống Bán Vàng, Ngọc Xanh, Đồ Item Tự Động 100% của GameHub.Pro
* Shop bán Vàng, Ngọc Xanh tự động

Truyện Ma Ai Hát Giữa Rừng Khuya Full

chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cường tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiềụ.
Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn
mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậỵ Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?
Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãị Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v… nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.
Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực là một khoái lạc ý vị Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai ngời sử võ?
Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coỉ Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.
Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ “cụt đầu” nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi…
Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồị Cách xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Đi thêm lên độ chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.
Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi dợc cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổị Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả!
Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịụ Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!
Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồị Bạn tôi biết có thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêủ Thực là một sự lạ.
Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Đại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất Việt Nam nàỷ.
Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôị Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi…
Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậỵ Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.
Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đị Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?
Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữạ
HẠT ĐỒNG GIAO
Khi chuyến tàu Hà Nội – Vinh ghé một phút tại ga Đồng Giao để trút xuống mỗi một người hành khách và một kiện hàng, thì kim đồng hồ nhà ga chỉ đúng 7 giờ 55 phút. Trời hôm ấy là một vòm trời đen tối; mưa phùn rả rích phủ kín không gian bằng một tấm màn ảm đạm; khí hậu nặng nề ẩm thấp; quang cảnh bốn bề lạnh lùng bí mật, chung quanh nhà ga đều là đồi núi từng cây, khiến càng tăng thêm vẻ hoang vu rùng rợn.
Chỗ đó, xưa kia là một khu rừng sâu thẳm, ở vào một nơi đồi núi hiểm hóc, chỉ có thể làm sào huyệt cho lũ giặc cỏ ẩn nấp, hoặc làm trường mai phục cho hai đạo quân Chúa Nguyên và Chúa Trịnh khi Bắc Nam xung đột binh đaọ Chỗ đó ở chính giữa khoảng giáp giớn hai xứ Bắc và Trung kỳ, nó chia rẽ bờ cõi hai kỳ bằng ba từng núi liền nhau, vì cớ ấy tục thường gọi là đèo Tam Điệp.
Ai đã từng đi xe lửa từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, chắc cũng đã để ý đến một quãng đường sắt gập ghềnh, hiểm trở, có lắm đoạn khúc khuỷu, mỗi lợt xe đi qua lại ngửa nghiêng lúc lắc phải ghìm bớt đà lại, làm cho hành khách khó chịu mỗi khi nghe tiếng nghiến kèn kẹt của bánh xe ép chặt trong máy hãm , giữa khi thân thể thì bị rung chuyển vì con tàu quằn quại, lợn ngùng ngoằn như con rắn uốn éo trên một con đường hẹp hòi, đục ở giũa núị Ló đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn phong cảnh, ta chỉ thấy mặt đá trơ trơ, dựng cao như bức tường, và toàn thị là một thứ sậy khẳng khiu, mọc ở ven sườn đá. Một khi tàu chui qua khỏi núi ra tới nơi đất phẳng thì lại chỉ là một khoảng đất mênh mông bát ngát lởm chởm những đá, trên mọc xanh um kín mít những thứ cây nhỏ không tên tuổi, lan rộng khắp vùng; trông bụi không ra bụi, đồng không ra đồng, chỉ thuần một màu xanh thẫm, không thấy mặt đất đâu nữạ Thứ cây đó chả hiểu là những loại gì, nó thấp lè tè, quá mặt đất độ hơn nửa thước, mọc chen lẫn với lau và sậy, với cỏ, với rêu, biến quãng bình địa ra một khu hoang vu xanh thẫm, rừng cây không ra rừng cây, nội cỏ chẳng ra nội cỏ. Trong muôn vàn thứ cây đó, thứ mọc nhiều nhất là cây săng, cây sim ; có thứ lại có hoa trắng và hoa tím, điểm một nét diễm lệ trên vẻ trơ tẻ cằn cỗi của ngàn laụ.
Từ mấy năm nay, có một ông hào phú được nhà nước cho phép khai khẩn chốn hoang vu đó để làm đồn điền. Nhưng dáng chừng sự khai hoang khó khăn quá, nên nhà hào phú kia đành bó tay chịu thua Tạo hóa, chỉ để lại trên đường sắt một tấm biển báo hiệu cho công chúng biết đất Đồng Giao là nơi sắp thành ấp nay maị Ai đi qua Đồng Giao mà chẳng thấy tấm biển gỗ to, đứng sừng sững trên ngàn cỏ xanh đã mấy năm nay, trên có một hàng chữ đập mạnh vào đồng tử người quá khách: “Concession Nguyễn Văn X … ”
Sự mở mang khu đất rộng giáp với đường sắt ở vùng Đồng Giao hẳn phải là một công trình vĩ đại, mà trong một thời gian ngắn ngủi, sức người khó nỗi làm xong. Muốn cho bãi đất hoang thành khoảng đồng phì nhiêu phong phú, tất phải bỏ ra mặt số tiền ức vạn, một là để phạt hết cây hoang cỏ xấu, hai là để san bằng mặt đất, vạt cho hết lượt sỏi đá gồ ghề. Công trình ấy cũng đủ nuốt hết một gia sản khổng lồ, huống lại còn phải xây nhà cửa, nuôi súc vật và trồng trọt! Có lẽ cũng vì thế nên nhà hào phú kia đành nhẩn nha làm việc, không thể tiến hành công cuộc khai khẩn một cách mau chóng hơn nữạ.
Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Đồng Giao, ai đã ở vùng ấy độ dăm bảy tháng ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói về thủy thổ miền giáp giới Bắc Trung kỳ. Đó là tổ sốt rét rừng, dẫu uống ký-ninh đến điếc tai cũng khó lòng tránh khỏị Khí hậu thực là kỳ quặc: tuy ở vào miền gần bể, mà Đồng Giao về phương diện thời tiết cũng chả khác gì những chỗ ở mạn thượng du, và có lẽ còn độc hơn các tỉnh ly vùng thượng du nữạ Đêm thì lạnh buốt phải đắp chăn tới sáng, ngày lại nóng bức như giữa mùa hè. Sống trong bầu hàn thử tương xung đó, phải có xương đồng da sắt mới tránh khỏi sự Ốm đau quặt quẹọ Buổi sáng, tám giờ, sương trắng như sữa, đặc như khói, còn phủ kín non sông cây cỏ; mãi đến khi mặt trời lên cao lắm mới tan dần. Chiều tới, vào khoảng bốn năm giờ, sương đã bắt đầu rỏ xuống rồi tụ lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm đắm trong một bức màn trắng đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó lòng trông thấy mặt nhaụ Trong vụ quí xuân, mỗi khi có mưa râm rả rích, sự nặng nề ướt át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều xám đục, đất thì vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm đạm. Có lẽ vì vùng Đồng Giao ở cao hơn mặt bể, lại có các rừng núi bao bọc, nên tuy không xa đồng bằng mấy, mà khí hậu thời tiết khác hẳn các miền ở đồng bằng. Quanh năm không khí bao giờ cũng đầy hơi nước; sự ẩm thấp không làm sao tả xiết; cỏ hoang rêu lạ tha hồ được tươi tốt những áo quần đồ đạc thì luôn luôn phải hơ, phải sấy, nếu không ắt bị mốc bị mục một cách mau chóng lạ thường.
Đem so sánh các tỉnh rải rác trên quãng đường thiên lý chạy từ Hà Nội đến Huế, thì có lẽ hạt Đồng Giao là chỗ độc địa hơn cả. Sở dĩ nước độc, tại vì bốn chung quanh hạt toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy bãi lau; nhưng lá cây mục nát từ thủa xưa còn chồng chất cả trên mặt đất, trong lòng suối, khiến nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như nước ao tù.
Những cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho tan đi, lại nhuốm các khí độc ở đất bốc lên, thu tất cả bao nhiêu những nguồn ám chướng vào lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào được, lá cây cổ thụ rờm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng niên vạn đại cũng cha tiêụ Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối, lâu ngày mục dần, biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào nước, hoặc ngấm vào mạch nước, đầu độc cả các suối, các ngòị Dân cư bởi thế, không tài nào tránh khỏi bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy nước làm một sự cần thiết cho cuộc sinh hoạt thường ngàỵ.
Đấy, chỉ xem qua như thế ta cũng đủ thấy đất Đồng Giao là một vùng ám chướng; mà không những hạt ấy chỉ độc địa ở khí hậu, chỉ buồn tẻ cằn cỏi ở phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ờ chỗ rùng núi bụi bờ chứa đầy các loài mãnh thú sinh hoạt một cách hùng cường phồn thịnh trong vẻ phồn thịnh cua cỏ câỵ
Bởi địa thế hiểm hóc, Đồng Giao đã làm trường thí nghiệm cho muôn ngàn tấn bi kịch khủmg khiếp. Nào là cướp bóc, chém giết, nào là hãm hiếp, giam kìm vân vân … Những trò thương tâm ấy đều là của loài người tranh cạnh với loài người, mà diễn ra, nó không có tính cách lạ lùng cho lắm. Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh thú, vì đói ăn bắt loài người cấu xé ra từng mảnh, xác thì dùng để lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ ma trành. Một câu chuyện trong muôn ngàn chuyện hổ hại người, tình cờ khi đặt chân lần đầu trên đất hạt Đồng Giao này tôi đã được nghe thuật laị.
Bạn hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi chúng ta sẽ cùng đi tới đầu đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực, dẫu vừa mới tám giờ đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn sự lạnh thấu trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh trên con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời, mưa phăn tạt vào mặt tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách va ly thất thểu trên vỉa đường ẩm thấp, đi vào cửa gạ
Cửa ga hé mở có một cánh. Một người thư ký, gầy gò trong chiếc áo the lụng thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi traọ Tôi cũng chả buồn nhìn xem ông ta già hay trẻ và mặt mui thế nàọ Vả lại tối lắm.
Bước vào mé trong gạ tôi thấy ấm áp dễ chịụ Anh sáng các ngọn đèn dầu tây tỏa ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng bẩn thỉu, trên tường có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một cái cân tọ
Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại , ở bóng tối bỗng đâu nhô ra một người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả ngườị Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng nhỡn.
- Tôi đợi anh đã lâụ Sao tàu chậm thế?
Tôi mới nhận ra đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, một nhà thầu khoán to hiện đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn Đồng Giaọ Anh Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tói xềnh xệch ra khỏi ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá vụn. Tôi ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùng vô định, lờ mờ u ám, không còn nhận rõ sự gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành xe, kêu rắc rắc, và luôn luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều đềụ Một nửa giờ như thế, xe ngừng laị Bạn tôi bấm đèn “pile” rọi sáng, đưa tôi vào một tòa nhà.
Trời tối lắm, tôi cũng chả biết nhà ấy lợp bằng ngói hay bằng gồi, tiến vào thì thấy nền nhà cao ráo, phòng ốc rộng rãi, tườg tuy bằng rơm và phên trát vữa, nhưng có cửa kính cứa chớp chắc chắn, mé trên thì cũng có trần như các nhà tâỵ Trong nhà có ghế xa lông rơm và dăm bộ phản, cùng một bộ bàn ăn. Bài biện rất sơ sài, song thực là ngăn nắp và sạch sẽ, thoạt mới vào ai cũng phải vò đoán chủ nhân là một kẻ làm ăn cẩn thận, ưa sự thực tế mà ghét thú xa hoạ Trên tường, quét vôi trắng toát, chả có tranh ảnh gì cả. Gian giủa, thì thấy treo một khẩu súng trường hai nòng và ba thứ khi giới ta; một thanh mã tấu, hai thanh quất và một cái nỏ. Thế là hết. Các đồ trang hoàng chỉ có thế, còn thì trơ trụi mạt tường không.
Nhưng ta cũng chớ nên vì thấy vẻ sơ sài đó mà vội liệt chủ nhân vào hạng người chỉ có óc buôn bán, không có óc mỹ thuật. Thực ra, Thủy là một thiếu niên rất chuộng văn chương, âm nhạc; sở dĩ chàng chịu sống trong cảnh trơ tẻ như thế chì bời chàng muốn theo đúng chí hướng của cha, muốn tự buộc mình luôn luôn phải nghĩ đến sự làm ăn để làm thí dụ cho đứa con thơ và cho vợ. Cái nhà ở Đồng Giao này, chả qua chỉ là chỗ sống tạm bợ mà thôi, hà tất phải vẽ vời trang hoàng, bày biện mỹ lệ làm gì cho tốn. Có quen Thủy lâu ngày, có đi sâu vào tâm lý chàng, mới có thể hiểu chàng là một nhân vật dễ xúc cảm, dễ mơ mộng, dẫu bề ngoài chàng cố hết sức nén đè các tính tình nhu nhược của mình đị.
Tlhoạt vừa tới nơi, tôi đã thấy trên bàn bày sẵn bát đũa và các món ăn nghi ngút. Có một sự làm tôi chú ý nhất, ngạc nhiên nhất, nhưng cũng vui thú nhất: ấy là một bộ khay đèn sáng loáng, rất tươm tất bày trên một cái sạp gụ Ở góc phòng.
Trước khi xuống chi với Thủy, tôi đã sắp sẵn trong va-li đủ các khí cụ cho sự nghiện hút của tôi rồị Tôi vẫn biết bạn không ưa thuốc phiện mà chỉ trọng thể thao săn bắn nên chắc rằng anh chả để ý gì đến sự tìm kiếm khay đèn cho tôị Ngờ đâu anh chu đáo quá! làm cho tôi vừa cảm kích vừa hổ thẹn nghĩ đến tình bạn đối với mình lại quí mến bạn biết bao!
Ăn cơm có Lệ Thi, vợ Thủy, cháu Thu Nhi, con gái Thủy, bạn tôi và tôi chuyện trò vui vẻ, ăn ngon quá, đồ ăn hết nhẵn, vì Thủy ăn khỏe như hùm. Giữa chốn đồng rừng u tịch này, vợ và con gái Thủy tựa như lai đóa hoa thành thị, lạc loài vào bãi tho mộc xanh um của đồi núi, ngõ hầu đem đến cho kẻ bị đày vào nơi hoang vắng một chút hương thơm của chốn náo nhiệt phồn hoạ Vợ con Thủy tức là cái mục gia của chàng, cái mục gia mà mỗi lần quá mệt nhọc ưu tư, chàng quay về ngắm nghía thì kluây hẳn nỗi lo sầu lao khổ. Có ở một chỗ xa xôi lạ người lạ đất, ở một chỗ mà “lau già trút vỏ nẩy mầm quanh hiên”, thì mới biết bàn tay mềm mại của người đàn bà và tiếng nói líu lo của đứa trẻ con, thực quả rất cần thiết cho sự sinh hoạt thường ngàỵ Mất...

<< 1 2 3 4 ... 13 >>

Facebook Google Plus

• Bài Viết Cùng Chủ Đề
Hotgirls Siêu Quậy – Ma Nữ Tái Sinh Full (Phần 2) Hotgirls Siêu Quậy – Ma Nữ Tái Sinh Full (Phần 2)
Tiếng Cười Trong Đêm Khuya Tiếng Cười Trong Đêm Khuya
Hồn Ma Trong Biệt Thự Hồn Ma Trong Biệt Thự
Ma Nhập Vì Cầu Cơ Ma Nhập Vì Cầu Cơ
Giết Người Lấy Sọ Giết Người Lấy Sọ

Quy định sử dụng | Thông tin liên hệ
Thế Giới Giải Trí Di Động
© 2017 Tai Game Java DMCA.com Protection Status