tập yêu nhưng chưa thực sự biết yêu. Yêu là thứ con người ta cần phải học và cần phải nỗ lực suốt đời, con à. Hôn nhân sẽ dạy người ta yêu. Tất nhien là có những người không học nổi, hậu quả là họ bị đuổi khỏi hôn nhân như những học sinh lười bị đuổi ra khỏi trường.
Mắt con tôi sáng lên:
- Học yêu cũng giống như học bơi vậy hả ba? Không học người ta vẫn bơi được, nhưng bơi theo kiểu con cún. Chỉ có học đàng hoàng, người ta mới biết bơi sải, bơi ngửa, bơi ếch và bơi bướm.
Tôi cười, nhớ lại cảnh tôi từng nhào xuống sông hồi tám tuổi:
- Và những ai lười sẽ bị chìm.
- oOo-
Tôi không lười nhưng tôi vẫn cứ chìm.
Tôi nhớ đến ngày con Tủn chuyển nhà đi nơi khác. Ba nó tìm được một công việc ngon lành ở thành phố, thế là cả nhà theo chân ba nó.
Một ngày trước hôm con Tủn ra đi, tôi đánh liều mượn chiếc điện thoại của chú Nhiên nhắn tin vào máy của mẹ nó:
- Chiều nay chúng ta chia tay một chút chăng? Buồn ơi là sầu!
Mẹ con Tủn đã hết giận tôi vụ nhắn tin linh tinh hôm trước. Có lẽ vậy, vì con Tủn kể với tôi là mẹ nó đã nói với nó bằng giọng hết sức dịu dàng:
- Thằng cu Mùi muốn gặp con.
Thằng cu Mùi và con Tủn lại ngồi trong quán chè của bà Hai Đọt. Gió ngoài sông thổi vào mát rượi, và lần đầu tiên tôi biết buồn.
Nhiều người sợ nỗi buồn. Nhưng tôi không sợ. Tôi chỉ sợ một cuộc sống không buồn không vui, nói chung là nhạt nhẽo. Đôi khi chúng ta cũng cần có nỗi buồn làm bạn, nhất là lúc cuộc sống bỗng dưng trống trải và cảm giác cô độc xâm chiếm ta từng phút một.
Khi tôi biết yên những câu thơ đầu tiên của tôi là nhằm chia sẻ điều đó:
Từ khi quen em, anh đã biết nỗi buồn
Và nỗi buồn cũng biết mặt anh
Ngày mai nếu nỗi buồn tìm đến
Cũng như là gõ cửa người quen…
Bạn nhớ lại mà xem, có phải điều đáng sợ nhất trong cuộc sống là không có ai gõ cửa nhà mình?
Tâm hồn chúng ta cũng vậy, chúng ta treo ngoài cửa sổ tâm hồn một
quả chuông nhỏ và thật khủng khiếp nếu tiếng chuông vui tai đó không một lần vang lên.
Như vậy, nỗi buồn đã rung chuông tâm hồn một chú bé tám tuổi ngày tôi xa con Tủn.
Tôi ngồi nhìn nó múc từng muỗng chè đưa vô miệng mà muốn khóc. Con Tủn không khóc. Nó mê mải ăn. Nó ăn một lèo ba chén chè. Sau này tôi mới biêt bọn con gái khi buồn khổ thường ăn nhiều. Có đứa nhờ thất tình mà mập lên. Có vẻ như khi không còn dịp nói những lời yêu thương, cái miệng đã hồn nhiên quay lại với chức năng nhai và nuốt. Nhiều cô bạn vừa ly hôn nói với tôi: Ăn vậy thôi, chẳng thấy ngon lành gì, nhưng cơ thể cứ đòi hỏi phải ăn. Hay thức ăn là thứ có thể lấp đầy nỗi buồn chăng?
Con Tủn trong buổi chiều chớm thu hôm đó cũng vậy. Chiếc muỗng đi qua đi lại giữa chén chè và đôi môi nó như những chuyến bay khứ hồi gấp gáp, tôi nhìn đến hoa cả mắt.
Nhưng ăn xong, vừa đặt chiếc muỗng xuống thì con Tủn bắt đầu khóc. Khi ăn con Tủn ăn nhiều hơn tôi gấp ba lần. Và khi khóc, nó khóc nhiều hơn tôi gấp sáu lần. Nước mắt đẫm mặt nó như thể nó đang ngồi dưới mưa. Khóc một hồi, nó liếc tôi, đưa tay quẹt vội lên má rồi vùng chạy ra ngoài.
Vậy thôi, buổi chia tay hôm đó chỉ gói gọn trong hai động tác: ăn và khóc. Không ai nói với ai được câu nào. Tôi có biết bao điều muốn nói với con Tủn. Rằng tôi rất mến nó, mặc dù bao giờ chơi trò vợ chồng tôi cũng cưới con Tí sún làm vợ. Nhưng rốt cuộc tôi đã không nói gì. Ngay cả câu đơn giản nhất là chúc nó lên đường bình an, tôi cũng không kịp thốt ra.
Mười năm sau, tôi gặp lại con Tủn khi tôi lên thành phố học đại học.( Thằng Hải cò lên trước một năm. Năm sau tới lượt tôi và con Tí sún).
Trong nhiều năm liền, bốn đứa tôi đã cặp kè với nhau vui vẻ như những ngày thơ ấu. Tôi đã tíu tít với con Tủn bao nhiêu là chuyện, trừ chuyện ngày xưa tôi thích nó. Mười năm sau nữa, tức là vào lúc hai đứa tôi đã hai mươi tám tuổi và con Tủn chuẩn bị lên xe hoa, tôi mới thú thật với nó những gì tôi nghĩ về nó hai chục năm trước.
Con Tủn tỉnh bơ:
- Hồi đó em cũng thích anh.
- Đừng giỡn chơi nha. – Tôi giật thót – Thích anh sao suốt ngày em cứ đi chơi với thằng Hải cò?
- Chính vì thích anh, em mới không dám đi chơi với anh.
Tôi hỏi mà nghe mồ hôi đẫm gáy:
- Em nói thiệt không đó?
- Em sắp lấy chồng rồi, nói dối anh làm chi!
Câu nói của con Tủn ghìm chặt tôi xuống ghế. Nó đặt tấm thiệp cưới xuống bàn và ra về một lúc lâu, tôi vẫn không sao nhấc người lên nổi.
Hai mươi tám tuổi thực ra không chàng trai nào có khả năng hiểu hết về con gái. Và có thể suốt cả đời vẫn vậy. Người ta nói đúng: hãy yêu phụ nữ nhưng đừng hoài công hiểu họ. Tại sao con Tủn thích tôi nhưng nó cứ bám lẵng nhẵng theo thằng Hải cò để tôi phải buồn bã thích con Tí sún?
Lúc hai mươi tám tuổi, tôi cứ nghĩ mãi về chuyện này và tìm ra cả chục lý do, lý do nào cũng chí lý.Bây giờ, lúc ngồi viết cuốn sách này tôi đủ từng trải để không thắc mắc nữa, đơn giản vì bản thân phụ nữ đôi khi họ còn không hiểu họ và phản ứng của họ nói chung rất khó lường. Có lẽ sự khó lường của phụ nữ chính là bản năng tự vệ mà tạo hóa đã ban cho họ. Sức vóc của phụ nữ thua thiệt so với đàn ông, và họ sẽ bị đàn ông xúm vào cai trị nếu một ngày nào đó họ trở nên dễ hiểu.
Tóm lại, phụ nữ giống như hoa hồng, không phải vì hoa hồng có gai như người ta nói, mà vì khồn có ai lẩn thẩn tìm cách cắt nghĩa vẻ đẹp của hoa hồng mặc dù tất cả chúng ta đều yêu nó.
“Tôi yêu hoa hồng”, thế là đủ!
“Và tôi đã chìm”, thế cũng là quá đủ!
TRANG TRẠI CHÓ HOANG
Như vậy, cuối cùng cuốn sách này đã được viết ra. Nó đã được bắt đầu vào một ngày tám tuổi tôi thấy cuộc sống sao mà tẻ nhạt và kết thúc vào một ngày tám tuổi khác tôi khám phá ra cuộc sống không còn tẻ nhạt nữa, nhưng sao mà buồn quá.
Tâm hồn con người từ khi sinh ra giống như mặt hồ phẳng lặng cho đến khi nỗi buồn đầu tiên được cuộc đời ném xuống.
Từ ngày con Tủn ra đi, đối với tôi cuộc sống đã bắt đầu có mùi vị, dù đó là thứ mùi vị không dễ chịu nhưng nhờ nó mà tôi không cảm thấy nhạt miệng khi thử nếm cuộc sống.
Như bạn biết đấy, tôi đã làm mọi cách để không phải nghe thứ âm thanh đều đều, đơn điệu và mòn mỏi của bánh xe thời gian lăn qua đời tôi.
Tôi cùng Hải cò, con Tủn và con Tí sún nghĩ ra hết trò này đến trò khác để thu xếp cuộc sống theo ý mình, trong đó lắm trò ngu ngốc nhưng cũng không ít trò thong thái.
Khi còn lại ba đứa ở thị trấn buồn tẻ tuổi thơ tôi, chúng tôi lại tiếp tục bày ra hàng mớ những trò quái chiêu khác, như nhúng đầu vào lu nước xem đứa nào nín thở lâu hơn đứa nào và một lần tôi suýt chết khi con Tí sún đè cả hai tay lên cổ tôi để mong tôi thắng bằng được thằng Hải cò.
Chúng tôi chạy như điên trong đêm để khi ngước mắt lên sung sướng thấy mặt trăng đang đuổi thưo mình.
Chạy chán, chúng tôi đem chiếc thau đặt ngoài sân, đổ nước vào rồi đặt ngửa tấm kiếng soi mặt trong đáy thau để xem cầu vồng hiện lên khi mặt trăng chiếu vào.
Nhưng có lẽ trò thú vị nhất là nuôi chó hoang.
Chẳng hiểu sao thời gian đó rất nhiều chó hoang đi lạc vào thị trấn. Có khi hai, ba con lếch thếch cặp kè nhau như một lũ trẻ đi bụi.
Chúng lang thang khắp các ngả đường, lê la và sục sạo trong chợ, thỉnh thoảng tạt vào nhà chúng tôi.
Tôi giữ lại một con, lấy cơm nguội cho nó ăn và nói với Hải cò và con Tí sún:
- Tụi mình sẽ mở một trang trại nuôi chó.
- Để làm gì? – Con Tí sún ngơ ngác.
- Tụi mình sẽ huấn luyện chúng thành những con chó thông minh, biết nghe lời.
- Để làm gì? – Tới phiên thằng Hải cò thắc mắc, nó hỏi y hệt con Tí sún.
- Sao lại để làm gì. Sau đó tụi mình sẽ đem bán. Được cả khối tiền!
Kiếm được tiền mà không phải ngửa tay xin ba mẹ là ước muốn của mọi đứa trẻ trên đời.( Người lớn không vậy. Có nhiều người lớn thích xin xỏ. Người lớn làm ra tiền và có thừa tiền để mua một chiếc vé xem kịch, xem ca nhạc, vé vào cổng một khu vui chơi nhưng người lớn lại thích kỳ kèo xin cho thêm một tấm vé mời dù rất nhiều trường hợp họ nhận được tấm vé mời kèm theo cái nhăn mặt khó chịu của người cho. Điều đó thật khó hiểu dù cho nó thật dễ hiểu!)
Kể từ hôm đó, chúng tôi thi nhau giữ lại bất cứ con chó hoang nào lạc vào nhà hoặc đi ngang qua trước cửa.
Trang trại nuôi chó đặt bản doanh tại nhà con Tí sún vì nhà nó rộng và ba nó hầu như đi vắng suốt ngày.
Tôi và thằng Hải cò có nhiệm vụ huấn luyện và cung cấp thực phẩm cho lũ chó.
Về công tác huấn luyện chó thì đứa nào cũng giành được là huấn luyện viên. Chúng tôi suýt ẩu đả nhau vì chiếc ghế vinh quang này nếu con Tí sún không can ngăn và đưa ra một đề nghị hết sức thông minh là tôi và Hải cò thay nhau mỗi đứa giữ chức huấn luyện viên một ngày.
Thằng Hải cò ngồi nhỏm trên gót chân, tay giữ chặt con chó có cái tên hết sức quý tộc là Hoàng tử bé. Nó liếc tôi và con Tí sún:
- Tụi mày xem này!
Nói xong, nó ném chiếc dép ra xa, rồi lập tức buông con Hoàng tử bé ra, miệng “xùy, xùy” thật lớn.
Hoàng tử bé hăng hái lao theo chiếc dép.
Hải cò ra lệnh:
- Ngậm lấy!
Hoàng tử bé ngoan ngoãn ngoạm chiếc dép.
- Giỏi lắm! Đem lại đây! – Hải cò hét lớn, trông nó khoái chí ra mặt.
Con Hoàng tử bé giả điếc, ngoạm chiếc dép chạy luôn ra đường.
Hải cò cụt hứng:
- Chắc tại tao la lớn quá. Nó tưởng tao mắng nó.
Hải cò vọt chạy ra đường, rượt theo con chó ngốc nghếch.
Năm phút sau, nó lại một tay ôm cổ con Hoàng tử bé, tay kia lăm lăm chiếc dép.
- Nào, làm lại nào!
Hải cò ném chiếc dép và con chó lại lao đi.
Lần này Hải cò không dám la lớn nữa. Vừa thấy con Hoàng tử bé ngoạm được chiếc dép, nó kêu khe khẽ” Lại đây! Lại đây!”, giọng năn nỉ thấy tội, tay búng tróc tróc.
Con chó quay cổ nhìn, lưỡng lự một giây, rồi nhả chiếc dép ra, phóng vụt về phía Hải cò.
Trong khi tôi và con Tí sún ôm bụng cười ngặt nghẽo thì Hải cò thò tay cốc đầu con Hoàng tử bé:
- Mày đúng là ngu như chó!
Bữa đó, huấn luyện viên Hải cò dạy chó đến mệt nhoài. Trong khi con Hoàng tử bé vẫn tung tăng vui vẻ thì Hải cò thở không ra hơi, trông nó vừa mệt vừa chán đời khủng khiếp.
Tôi cười khì khì:
- Xem tao đây nè. Muốn huấn luyện chó thành công phải thưởng cho nó. Mày xem các tiết mục xiếc thú trên tivi thì biết. Dù là dạy chó, cá heo, cọp hay sư tử, bao giờ người dạy thú cũng cho nó ăn một thứ gì đó.
Tôi kêu con Tí sún kiếm một cái bánh, bẻ ra từng mẩu nhỏ.
Tôi dứ dứ mẩu bánh trước mặt con Hoàng tử bé, giọng nghiêm trang:
- Nghe đây, nhóc! Nếu mày nhặt chiếc dép đem về cho tao, tao sẽ thưởng cho mày mẩu bánh này.
Con Hoàng tử bé vẫn nhìn lom lom mẩu bánh trên tay tôi, nước dãi chảy ướt hai bên mép. Tôi trông thái độ của nó, ngờ rằng nó chưa nghe tôi nói gì, bèn cẩn thận và chậm rãi lặp lại một lần nữa, rồi cao giọng:
- Nhớ chưa?
Nghe tôi lớn tiếng, con Hoàng tử bé nhấc mắt lên khỏi mẩu bánh để nhìn tôi với vẻ thăm dò, nhưng chỉ một giây sau, như không chịu được cơn đòi hỏi của dạ dày, ánh mắt nó lại rớt xuống mẩu bánh trên tay tôi, chân cẳng cựa quậy một cách bồn chồn.
Tôi nóng ruột liệng chiếc dép ra xa, quát:
- Mày nhặt chiếc dép đem về đây rồi sẽ được ăn.
Con Hoàng tử bé bỏng chẳng buồn nhúc nhích, ánh mắt nó vẫn xẹt qua xẹt lại giữa mẩu bánh và gương mặt tôi một cách khẩn trương.
Thấy Hoàng tử bé giả điếc, Hải cò và con Tí sún cười hích hích khiến tôi nhột nhạt như có ai cù.
Hải cò còn chọc quê tôi:
- Tưởng sao! Dạy cho con Hoàng tử bé không thèm nghe lời mình, tao cũng làm được.
Tôi liếc con Tí sún, đỏ mặt chống chế:
- Tao quên. Trước tiên cần phải làm gương cho nó.
- Làm gương là sao hả anh?
- Là làm mẫu cho nó xem trước. – Tôi gãi cằm, giảng giải – Bọn chó là chúa ngốc. Nếu không biểu diễn cho nó xem qua một lần con Hoàng tử bé sẽ chẳng hiểu mình muốn gì ở nó.
Tôi trút những mẩu bánh vụn lên chiếc ghế thấp, hai bàn tay phủi phủi đập đập một hồi, rồi bò xuống nền đất, dặn con Tí sún:
- Bây giờ tao đóng vai con Hoàng tử bé, mày liệng chiếc dép cho tao lượm về, sau đó mày đút bánh cho tao ăn.
- Em hiểu rồi. Thế là con Hoàng tử bé sẽ bắt chước làm theo.
Con Tí sún cười khúc khích. Nó rút chiếc dép dưới chân liệng tuốt đằng góc nhà, ra lệnh:
- Nào, lượm chiếc dép đem lại đây cho chị!
Tôi bò lom khom trên hai đầu gối, tay chống xuống đất, lết lại chỗ chiếc dép.
Chiếc dép dơ hầy, lúc đầu tôi định nhặt bằng tay nhưng sợ làm như vậy con Hoàng tử bé sẽ không lãnh hội được trọn vẹn bài học, tôi liều nín thở cúi xuống ngoạm chiếc dép vô miệng.
Khi quay lại, tôi sửng sốt thấy con Hoàng tử bé không thèm quan tâm gì đến tôi. Nó đang chồm lên ghế, tỉnh bơ ngoạm hết mẩu bánh này đến mẩu bánh khác. Cứ như thể tôi là con chó thật và nó là tôi thật.
Tôi nhả chiếc dép hôi rình trong miệng ra, giận dữ:
- Hoàng tử bé! Mày học hành kiểu gì thế hả?
Con chó nghe tôi hét, hoảng hồn thả hai chân trước xuống khỏi ghế, ngoái cổ nhìn tôi.
Tôi chưa nguôi tức:
- Mày là chó chứ tao đâu phải là chó. Tại sao trong khi tao ngoạm dép thì mày ngoạm bánh hả?
Tôi hầm hầm chạy lại chiếc ghế, tính cốc cho nó một phát vào đầu nhưng con Hoàng tử bé đã nhanh chân lủi mất, kết thúc luôn buổi huấn luyện đầu tiên của tôi và Hải cò, tất nhiên là kết thúc theo cái cách chúng tôi không hề muốn.
Suốt một tuần lễ tiếp theo, công tác huấn luyện chó của chúng tôi không tiến triển thêm được bước nào. Trong khi đó, những lời ca than của các bậc phụ huynh ngày một nhiều.
Ba mẹ tôi và ba mẹ Hải cò bắt đầu nhìn hai đứa con bằng ánh mắt nghi ngờ khi thức ăn trong tủ chạn thường xuyên biến mất. Đến khi phát hiện chúng tôi đang nuôi một bầy chó hoang tại nhà con Tí sún thì sự nghi ngờ chuyển thành đe dọa.
Ba tôi hăm he:
- Mày mà còn đánh cắp thức ăn trong tủ lần nữa là tao chặt tay mày nghe, cu Mùi!
Ba thằng Hải cò chắc cũng hù dọa nó bằng những lời na ná như ba tôi nên những ngày sau mỗi khi qua thăm trang trại huấn luyện chó nó chỉ dám lận trong áo vài mẩu cơm cháy.
Lẽ ra người có đủ bực dọc nhất để phê phán bọn tôi là ba con Tí sún. Không thể bảo việc con gái ông biến ngôi nhà sạch sẽ và yên tĩnh thành một trại nuôi chó chộn rộn và thoang thoảng múi cứt đái là một hành động đáng để người lớn hoan nghênh.
Thế nhưng ông không la rầy hay trách móc bọn tôi một lời và điều đó khiến tôi và Hải cò đồng ý một cách rưng rưng rằng nếu có một người cha tốt nhất trên đời thì đó chính là ba con Tí sún.
Quan niệm đó chỉ đổ vỡ khi chúng tôi phát giác bầy chó hoang trong trang trại cứ lần lượt biến mất từng con một.
Thoạt đầu chúng tôi nghĩ những con chó đó đã trốn nhà ra đi để thỏa mãn nỗi đam mê về một cuộc sống dọc đường gió bụi. Nhưng đến một ngày con Tí sún tình cờ bắt gặp ba nó đang chén chú chén anh với ba thằng Hải cò trong quán rượu lão Ba Đực, trước mặt là một mâm thịt được tô điểm bởi lá mơ và củ riềng thì bọn tôi đã đau xót hiểu ra những chú chó khốn khổ đó đã thực sự ra đi đến cõi nào trong trần gian đầy bụi bặm này.
Trang trại chó giải tán kể từ ngày đó, không kèn không trống. Giấc mơ kiếm tiền của những chú nhóc cô nhóc tám tuổi cũng tan thành mây khói. Chỉ tiếc là con Tủn đã ra đi, nếu không bốn đứa tôi thế nào cũng lập một phiên tòa để kể tội ba con Tí sún. Ông thật là may.
CUỐI CÙNG LÀ CHUYẾN TÀU KHÔNG CÓ NGƯỜI SOÁT VÉ
Nhiều người bảo thịt chó rất ngon. Thậm chí có người bảo bên Hàn Quốc, có cả một ngành công nghệ chế biến thịt chó. Vì thịt chó là món ăn khoái khẩu của người Hàn.
Người phương Tây ghê sợ điều đó. Người phương Tây rất yêu quý vật nuôi, đến mức có người bảo rằng ở phương Tây cá đối tượng mà xã hội quan tâm được xếp theo thứ tự: trẻ em, phụ nữ, chó mèo, cuối cùng mới đến đàn ông. Đó là lý do vì sao rất nhiều nhân vật nổi tiếng ở phương Tây kịch liệt phản đối khi Hàn Quốc được Liên đoàn bóng đá thế giới chọn là một trong hai quốc gia tổ chức World Cup 2002.
Lúc tôi đang ngồi viết lại câu chuyện này, trong vòng bán kính một cây số tính từ chỗ tôi ngồi có ít nhất năm nhà hàng đặc sản, ở đó người ta quảng cáo và bày bán không thiếu một món ăn lạ lẫm nào: nai, chồn, rắn, tê tê, nhím, thằn lằn núi, đà điểu…
Tôi đã thử ăn một vài món trong số đó và thú thật là chẳng thấy ngon lành gì, hoặc nếu cảm thấy ngon vì lạ miệng thì cũng không ngon đến mức muốn ăn lại lần thứ hai.
Thực ra, các món ăn ngon nhất luôn luôn vẫn là các thức ăn quen thuộc: các loại thịt heo, bò, gà…Trước khi heo, bò, gà trở thành gia súc, chắc chắn loài người đã có hàng ngàn năm dùng răng và lưỡi sang lọc các loại thịt trên trái đất . Tổ tiên chúng ta dĩ nhiên đã thử nếm qua các thứ thịt nai, chồn, rắn, tê tê, nhím, thằn lằn núi, đà điểu và vô số các động vật khác( bây giờ gọi là đặc sản) lẫn chó, ngựa, mèo, heo, bò, gà ( lúc đó còn gọi là chó rừng, ngựa rừng, mèo rừng, heo rừng, bò rừng, gà rừng) và cuối cùng đã đi đến kết luận: các loại thịt heo, bò, gà là tuyệt nhất. Từ phán quyết đó, heo rừng, bò rừng, gà rừng đã được nuôi dưỡng và thuần hóa để trở thành nguồn cung cấp thực phẩm vĩnh viễn cho con người. Đó là một lựa chọn vô cùng sáng suốt và có giá trị ở mọi không gian và thời gian: cho đến nay ba loại thịt trên nghiễm nhiên chiếm một vị trí không thể thay thế trên bàn ăn của mọi gia đình từ Đông sang Tây.
Chó đã không được chọn lựa làm thực phẩm, hiển nhiên là có lý do của nó, không chỉ vì nó có khoái khẩu và bổ dưỡng hay không. Loài người thuần hóa ngựa để cưỡi, trâu để kéo cày, mèo để bắt chuột và chó để trông nhà, và quan trọng hơn là để làm bạn với con người, đặc biệt làm bạn với trẻ con.
Tôi, thằng Hải cò và con Tí sún không thể nói với Hoàng tử bé”Thịt của bạn ngon lắm”. Mọi đứa trẻ khác cũng không thể nói với mọi con chó khác những lời như thế. Đơn giản, trẻ con không bao giờ nhìn chó như nhìn một món ăn, dù gươm kề cổ.
Còn tại sao chó trở thành bạn của con người thì có lẽ tôi không cần phải giải thích. Tôi tin bất cứ ai đọc cuốn sách này cũng từng có một con chó là bạn. Với một đứa trẻ, thèm ăn thịt một con chó cũng chẳng khác nào thèm ăn thịt một đứa bạn thân của mình. Điều đó đáng kinh sợ, vì đứa trẻ khi đó sẽ giống như những con yêu tinh ăn thịt người trong các câu chuyện cổ.
Đó là lý do tại sao bọn tôi quyết định giải tán trang trại chó hoang trong đau đớn, mặc dù để làm được...