công phóng chạy, Thừa Chí cũng phải rảo cẳng đuổi theo. Khi tới cạnh nàng, liền đưa dù cho nàng dùng nhưng nàng đẩy dù ra không cầm.
Thừa Chí nói:
- Chú Thanh, chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề sống chết có nhau, họa phúc cùng chịu, tại sao bây giờ chú lại giận anh như thế?
Thấy chàng nói như vậy, Thanh Thanh bớt giận trả lời:
- Anh muốn tôi không giận, phải nghe theo tôi một điều này.
- Chú cứ nói đi, mười điều anh cũng xin theo.
- Từ nay trở đi, anh không được gặp mặt An cô nương và má cô ta nữa. Nếu anh nhận lời, em xin lỗi anh ngay.
Nói xong, nàng nhếch mép cười liền. Thừa Chí khó xử quá, chàng nghĩ thầm: “Mẹ con nàng Tiểu Tuệ có ơn với mình, sau này thế nào ta cũng kiếm cách báo đền. Nay vô duyên, vô cớ tránh mặt không gặp người ta, như thế sao được.”
Chàng là người thật thà trung thành, không thể lừa dối nàng mà cứ nhận bừa đi cho được êm chuyện. Vì vậy, chàng phân vân không biết trả lời thế nào cho phải. Thấy thế, Thanh Thanh giở mặt liền:
- Tôi biết mà, có khi nào anh nỡ bỏ em Tiểu Tuệ của anh!
Nói xong, nàng lại quay đầu chạy thẳng. Thừa Chí vội gọi:
- Chú Thanh, chú Thanh!
Thanh Thanh cứ cắm đầu chạy, không chịu đứng lại. Chạy được một quãng, thấy bên đường có cái đình nghỉ mát, nàng chạy thẳng vào. Thừa Chí cũng chạy theo vào.
Trời nóng nực, nàng lại mặc áo đơn rất mỏng, nay bị nước mưa ướt đẫm, áo quần dính sát vào người, trông rất khó coi, nàng xấu hổ quá, gục đầu xuống lan can đình vừa khóc vừa kêu gào:
- Anh cứ bắt nạt tôi! Anh cứ bắt nạttôi!
Thừa Chí nghĩ: “Lạ thật! Mình có bắt nạt nàng hồi nào đâu?”
Tuy vậy, chàng vẫn chịu đựng không cãi lại, cởi áo dài ra, phủ lên trên người nàng. Nhờ chiếc dù, áo chàng không bị ướt. Nghĩ đến cái chết bi đát của mẹ nàng, nàng lại càng khóc lớn hơn trước. Thừa Chí cuống quít cả lên, không biết làm thế nào cho phải. Một lát sau, mưa tạnh dần, Thanh Thanh vẫn khóc không dứt. Nàng đưa mắt nhìn trộm thì Thừa Chí đang nhìn mình, vội quay đầu tiếp tục khóc như trước. Thừa Chí đành liều không nói gì nữa, và nghĩ thầm: “Thử xem cô có bao nhiêu nước mắt nào?”
Hai người đang cầm cự không ai chịu đấu dịu trước, bỗng có tiếng chân ở phía Bắc đi tới. Một thanh niên nhà nông đỡ một thiếu phụ đi vào trong đình. Thiếu phụ đó đang đau ốm, rên rỉ luôn mồm.
Nông dân nọ hình như là chồng nàng, ra vẻ rất thương vợ, cứ an ủi luôn mồm. Thấy có người lạ vào, Thanh Thanh vội nín ngay.
Thừa Chí sực nghĩ ra một kế: “Ta thử cách này xem.”
Một lát sau, đôi vợ chồng nhà nông đỡ nhau đi ra khỏi đình. Thanh Thanh thấy mưa đã tạnh hẳn, đang định sửa soạn đi, Thừa Chí bỗng kêu:
- Ối chà! ối chà!
Thanh Thanh giựt mình sợ hãi, quay đầu lại, trông thấy chàng đang ôm bụng ngồi xụm xuống, vộ chạy lại xem. Nhờ nội công tinh xảo, Thừa Chí chỉ vận hơi một cái là đầu trán mồ hôi chảy ra như tắm. Thanh Thanh sợ quá, vội hỏi:
- Làm sao thế? Anh đau bụng đấy à?
Thừa Chí nghĩ thầm: “Đã giả bộ thì phải giả bộ tới cùng.”
Nghĩ đoạn, chàng vận lại hơi làm bế tắc các yếu huyệt lại, Thanh Thanh sờ tay chàng thấy lạnh như sắt đá càng hoảng sợ thêm.
Thấy Thừa Chí bỗng đau nặng, Thanh Thanh sợ hãi quá, vội hỏi:
- Anh làm sao thế? Đau ở đâu?
Thừa Chí chỉ rên ầm ĩ chớ không chịu trả lời nàng. Lo sợ quá, Thanh Thanh lại khóc.
Thừa Chí nói:
- Chú Thanh ơi! Bịnh của tôi không khỏi được đâu. Chú để mặc tôi. Chú cứ lên đường một mình đi!
- Sao bỗng tự dưng anh lại đau thế này!
Thừa Chí làm ra bộ yếu hơi yếu sức trả lời:
- Từ thuở nhỏ, tôi có chứng bịnh là… không thể nào chịu nổi sự tức tối được… nếu ai làm tôi bực mình, lo nghĩ một cái, là đau tim đau bụng liền… ối trời ơi! Đau quá!
chết mất thôi!
Lúc này, không còn để ý tới “nam nữ thọ thọ bất thân” nữa, Thanh Thanh ôm choàng lấy chàng, xoa ngực xoa bụng luôn tay. Bị nàng ôm như vậy, Thừa Chí ngượng quá, đành phải để yên, chớ không dám kháng cự, Thanh Thanh vừa khóc vừa nói:
- Thừa Chí đại ca ơi! Do em mà nên cả. Xin anh đừng giận em nữa!
Thừa Chí nghĩ: “Nếu ta không tiếp tục giả bộ, nàng sẽ cho ta là người không đứng đắn, mượn thế cầu lợi.”
Đã cỡi trên lưng hổ, chàng đàng phải cúi đầu rên rỉ:
- Có lẽ tôi chết mất! Chú chôn cất tôi xong, làm ơn báo tin cho đại sư huynh tôi hay!
Càng giả dạng, càng làm như thật, chàng cứ phải cố nhịn cho khỏi phì cười.
Thanh Thanh vẫn khóc:
- Anh không thể chết được! Anh có biết đâu, em giả bộ hờn giận để chọc tức anh đấy chớ! Sự thật, lòng em… lòng em vẫn yêu anh. Nếu anh chết, em cũng không thể nào sống được nữa!
Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Thế ra, nàng đã yêu ta!”
Đây là lần đầu tiên mà chàng được hiểu thế nào là hương vị của ái tình, nên trong lòng chàng có một cảm giác lạ lùng là vui mừng và cũng là xấu hổ. Vì vậy, chàng cứ ngây người ra, không nói nửa lời. Tưởng chàng sắp chết đến nơi thật, nàng càng ôm chặt lấy chàng, miệng thì kêu gọi:
- Đại ca! Đại ca đừng chết!
Ngửi thấy hơi thở của nàng thơm của hoa lan, chàng buông nhũn người tựa vào lòng nàng, ngây ngất như kẻ mất hết hồn vía. Nhưng chàng giựt mình tỉnh ngộ ngay, tự bảo thầm: “Thù cha chưa trả, không thể nào nghĩ tới tình yêu được. Vả lạ, ta là đại trượng phu quanh minh chánh đại, không nên lừa gạt một thiếu nữa yếu đuối như thế!”
Lúc ấy, Thanh Thanh lại gọi:
- Em tức giận giả dối đấy, anh đừng có cho là thật.
Thừa Chí cả cười rồi nói:
- Tôi cũng ốm đau giả dối đấy, em đừng có cho là thật!
Thanh Thanh ngẩn người giây lát bỗng đứng dậy, tát luôn một cái. Bị đánh mạnh quá, mắt Thừa Chí hoa lên, chỉ trông thấy những tia lửa. Thanh Thanh ôm mặt, cúi đầu đi liền. Thừa Chí ngơ ngác không hiểu tại sao, nghĩ thầm: “Vừa rồi, nàng nói yêu ta lắm, nếu ta chết nàng cũng không thể sống! Sao bỗng dưng nàng giở mặt đánh ta như vậy?”
Chàng không hiểu thấu tâm sự của nàng, cứ đi theo sau. Tát chàng một cái, cơn giận đã dịu bớt hẳn, nàng cảm thấy khoái vô cùng. Trông thấy má bên trái của chàng đỏ gay và hiện rõ vết năm ngón tay của mình, Thanh Thanh rất ân hận nhưng cũng khoái chí nữa. Nghĩ tới đã vô ý thổ lộ hết tâm sự với chàng, nàng cảm thấy vừa xấu hổvừa khó chịu. Chiều tối hôm đó, đi tới Nghĩa Ô, nàng vào trọ một khách điếm, rồi ra ăn cơm. Thừa Chí cũng ngồi vào bàn ăn đó, Thanh Thanh mỉm cười:
- Cứ mặc đây đi, theo sát người ta thế này thật đáng ghét quá!
Thừa Chí sờ má rồi nói:
- Bụng tôi đau là đau giả hiệu, còn cái má này mới đau thật sự.
Thanh Thanh khoái chí cười ồ, thế là hai người lại hòa hảo như trước. Cơm xong, trò chuyện phiếm một lúc, rồi ai về phòng người nấy ngủ. Thấy chàng đối xử với mình hòa nhã và có lễ độ như vậy, Thanh Thanh mừng thầm.
Sáng ngày hôm sau, vừa ngủ dậy, Thừa Chí nói:
- Chú Thanh, việc thứ nhứt chúng ta phải làm là đưa hài cốt bác gái lên núi Hoa Sơn an táng.
- Vâng, nhưng tại sao anh tìm ra được di cốt của ba em thế?
- Chuyện này để khi đi đường, tôi nói cho mà nghe.
Hai người đi về phía Bắc, Thừa Chí đem chuyện con đười ươi (khỉ đột) làm thế nào tìm thấy hang núi, rồi chàng vào trong hang, trông thấy xương cốt, đào thấy hộp sắt và họa đồ, vân vân, kể cả cho nàng nghe.
Thừa Chí vừa kể tiếp tới chuyện Trương Xuân Cửu và tên hòa thượng, Thanh Thanh liền rùn mình sợ hãi nói:
- Tên Trương Xuân Cửu là đồ đệ của ông Tư em, tánh rất gian ác. Còn tên hòa thượng đó có phải giữa mặt có cái thẹo không?
- Phải chính y đấy.
- Tên y là Ngộ Ân, đồ đệ của ông Hai em. Từ khi ba em mất tích, các ông em phái mười mấy đệ tử đắc lực đi tìm kiếm khắp mọi nơi. Cứ cách ba năm, chúng phải về báo cáo một lần. Hai tên ấy độc ác, gian xảo khôn tả. Chúng chết như vậy thật là đáng lắm!… Ba em mất rồi mà còn dùng kế giết được kẻ địch, thật là tài ba quá!
- Sau khi họ biết tôi có chút liên quan với bác trai, thếnào chúng cũng sẽ lùng kiếm tôi thật ráo riết.
- Nhưng họ có đủ tài hạ nổi anh đâu mà anh phải lo ngại? Nếu ba em còn sống, trông thấy anh đánh họ tơibời như vậy, thế nào cũng mừng lắm… Ừ, phải đấy, má em đã trông thấy, thể nào cũng kể lại cho ba em hay… anh đưa cho em xem bút tích của ba em!
Thừa Chí đưa bức họa đồ cho nàng xem, rồi nói:
- Đây là vật của ba chú để lại, tôi trao trả cho chú mới phải.
Trông thấy bút tích của Kim Xà Lang Quân, Thanh Thanh vừa đau lòng, vừa vui mừng. Từ đó, hễ đến nơi nào nghỉ chân là nàng lấy bức họa đồ ra xem và vuốt ve. Một hôm, đi tới Tùng Giang, Thanh Thanh bỗng hỏi:
- Đến Nam Kinh, chúng ta hãy đi đào bảo vật trước nhé?
Thừa Chí ngạc nhiên:
- Bảo vật nào?
Thanh Thanh nói:
- Bức họa đồ của ba em chẳng nói rõ: “Trọng bảo chi đồ” là gì? Ba em còn dặn, người nào tìm kiếm được vật báu phải tặng lại cho má em mười vạn lạng vàng. Như vậy, những bảo vật chôn giấu kia tất phải quý giá lắm?
Ngẫm nghĩ giây lát, Thừa Chí đáp:
- Tuy vậy nhưng chúng ta hãy nên làm việc chánh đáng của ta trước đã!
Lúc này, trong lòng chàng chỉ muốn gặp sư phụ xong là đi báo thù cho cha ngay.
Thanh Thanh nói:
- Bây giờ đã có sẵn họa đồ, chúng ta đi kiếm ngay số châu báu kia, em thiết tưởng chả mất bao nhiêu thời giờ của chúng ta đâu!
- Chúng ta lấy được châu báu, vàng bạc bây giờ để làm gì? Chú Thanh, tôi khuyên chú nên thay đổi hẳn tâm tính, đừng nên tham vọng vào những của báu ấy!
Tiếp theo đó, chàng còn khuyên Thanh Thanh một hồi nữa. Nàng bực mình, bĩu môi, phồng mồm, hờn giận và không ăn cơm chiều.
Thanh Thanh nói:
- Đại ca! Em mới lấy có hai nghìn lạng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sợ đến nỗi phải nhờ đại sư huynh của anh thân chinh đi lấy lại! Tại sao Sấm Vương lại keo kiệt đến thế?
- Sấm Vương có phải là người keo kiệt như chú tưởng đâu! Anh đã được gặp ông ta rồi. Là người rất khinh tài trọng nghĩa, ông ta chỉ lo giải trừ đau khổ cho dân chúng.
Còn riêng ông ta thì rất tiết kiệm. Đó mới thật là đại anh hùng, đại hào kiệt. Số vàng hai nghìn lạng đó, ông ta đang cần dùng tới, tất nhiên không khi nào chịu để cho mất đi một cách dễ dãi như thế!
Thanh Thanh nói:
- Anh nói rất phải. Nếu chúng ta dưng cho ông ta hai vạn lạng vàng, hoặc là hai trăm vạn lạng vàng, hai nghìn vạn lạng vàng. Anh bảo như thế có nên không?
Một lời cảnh tỉnh Thừa Chí, chàng mừng quá, quên cả phép tắc, nắm chặt lấy hai tay Thanh Thanh:
- Chú Thanh, tôi thật u mê quá. May là có chú nhắc nhở cho, thật cám ơn chú quá!
Thanh Thanh rút tay lại, trả lời:
- Em không dám! Sau này chỉ mong anh ít chửi bới là em được mãn nguyện lắm rồi!
Thừa Chí vội cười nịnh:
- Nếu chúng ta đào được số vàng bạc châu báu đó, đem đến cho Sấm Vương thì không khác gì chúng ta đã ban ân huệ cho dân chúng.
Hai người ngồi bên bờ đường, giở họa đồ ra xem cho kỹ, thấy trong họa đồ có vẻ một khuyên đỏ, bên cạnh có chú thích: “Ngụy Quốc Công Phủ” bốn chữ.
Thừa Chí nói:
- Bảo tàng ở dưới đất một căn phòng hoang trong phủ Ngụy Quốc Công, đào xuống khá sâu, mở tấm phản bằng sắt lên, thấy mười chiếc hòm bằng sắt rất lớn. Đó là những hòm vàng bạc châu báu đấy…
- Bây giờ, chúng ta tới Nam Kinh, kiếm được Ngụy Quốc Đồng phủ là lấy được kho tàng đó ngay.
- Ngụy Quốc Công là phong hiệu của Đại tướng quân Từ sử. Ông ta là vị đại thần có công nhứt với bổn triều. Vậy thì phủ của ông ta phải to lớn lắm. Dù vào được trong phủ, chúng ta đào lấy kho tàng kếch sù ấy, cũng không phải là chuyện dễ.
- Bây giờ chúng ta cứ đoán suông, tính hão mãi cũng vô cùng. Chi bằng hãy tới Nam Kinh trước, rồi tùy cơ ứng biến sau.
Mấy ngày sau, hai người đã đi tới thành Nam Kinh. Nơi đây thành phố lớn nhứt nước Trung Hoa, và cũng là chỗ khai cốt kiến lập thủ đô của Minh Thái Tổ. Ngoài thành lại có các lăng tẩm của các vua chúa triều nhà Minh. Lúc này, tuy gặp thời loạn, Nam Kinh vẫn phồn hoa vô cùng. Hai người giả dạng nhân đến Nam Kinh thăm bạn, vào nghỉ chân trong một khách điếm.
Thừa Chí gọi phổ ky vào, hỏi thăm đường lối đi Ngụy Quốc Công phủ. Phổ ky ngơ ngác trả lời là, Nam Kinh không có phủ Ngụy Quốc Công.
Thanh Thanh nổi giận, mắng chửi liền:
- Ngụy Quốc Công là đệ nhất đại công thần của bốn triều, sao lại không có Quốc Công phủ?
Phổ ky trả lời:
- Nếu là có thì mời tướng công cứ đi tìm kiếm, tiểu nhân quả thật không hay biết.
Thấy phổ ky cãi bướng, Thanh Thanh giơ tay định đánh. Thừa Chí vội cản lại.
Phổ ky lẩm bẩm đi ra liền.
Tìm kiếm bảy, tám ngày liền, hai người vẫn chưa tìm thấy Quốc Công phủ. Nóng lòng báo thù, Thừa Chí định tạm gác sang một bên không tìm kiếm nữa. Nhưng Thanh Thanh cứ cương quyết không chịu. Hai người lại dò hỏi thêm năm, sáu ngày, ai ai cũng nói con cháu của Tứ đại tướng quân hiện được lập phong Vương tước, giữ binh quyền thành Nam Kinh, Vương phủ của Vương tước đang ở mới xây dựng mấy năm, chớ không ai biết Ngụy Quốc Công là gì cả, Thanh Thanh liền đề nghị nên vào Vương phủ dò thám xem.
Thừa Chí cực lực phản đối và giải thích rằng: Vương phủ đó mới xây, bảo rằng nhứt định không có ở trong đó. Mà dù kho tàng có ở trong đó đi nữa, sức hai người làm sao lấy nổi số châu báu lớn lao ấy? Lỡ để cho Vương tước biết tin, cho người đào lấy, có phải là mất chỗ kho tàng ấy không? Thấy chàng nói có lý, Thanh Thanh đành phải nghe theo.
Hôm đó, hai người mướn chiếc thuyền đi chơi sông Tần Hoài cho đỡ buồn.
Thừa Chí nói:
- Chúng ta tìm kiếm thêm một ngày nữa. Nếu không thấy là chúng ta phải bỏ đi đấy nhé!
- Không! Phải kiếm thêm ba ngày nữa cơ!
Lúc ấy, trên mặt sông tiếng đàn ca hát nổi lên khắp nơi, Thanh Thanh cao hứng uống vài chén rượu, hai má đỏ bừng, dưới ánh sáng đèn trông nàng càng xinh đẹp thêm.
Thừa Chí cười nói:
- Thôi được, tôi bằng lòng ba ngày vậy!
Thấy thuyền bên cạnh đang có tiếng ca hát véo von, Thanh Thanh cao hứng vì hơi rượu đã bốc, vừa cười vừa nói với Thừa Chí:
- Đại ca, chúng ta cũng gọi hai cô đào đến ca hát cho vui nhé?
Là người quân tử, thấy Thanh Thanh đề nghị gọi kỹ nữ hầu rượu, Thừa Chí mặt đỏ bừng, trả lời:
- Chú uống say rồi phải không? Sao bỗng dưng lại muốn bậy bạ như thế?
Các phu thuyền chỉ mong khách du ngoạn gọi kỹ nữ hầu rượu và ca hát để được kiếm thêm tiền hoa hồng, liền lên tiếng:
-Các tướng công đến sông Tần Hoài chơi đều kêu gọi các cô hầu rượu. Nếu tướng công quen biết cô nào, xin cho biết để cháu đi mời?
Thừa Chí vội xua tay lia lịa:
- Không, không gọi đâu!
Thanh Thanh hỏi:
- Trên sông này có những cô nào nổi tiếng nhứt?
Phu thuyền đáp:
- Thưa tướng công, ở sông Tần Hoài này có bốn cô là: Điền Ngọc Kính, Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển và Lý Hương Quân là nổi danh nhứt. Cô nào cũng giỏi thơ phú, viết chữ đẹp, đều được nổi tiếng là nữ tú tài!
Thanh Thanh nghĩ ngợi giây phút rồi mới nói:
- Bác mời hộ tôi hai cô Liễu Như Thị và Đổng Tiểu Uyển.
Phu thuyền rụt đầu, thè lưỡi đáp:
- Có lẽ tướng công lần đầu tiên đến thành Kim Linh này chắc?
Thanh Thanh hỏi:
- Mới đến thì sao?
- Những cô nổi danh ấy chỉ kết giao với vương tôn công tử và nho sĩ thôi, chớ những nhà buôn muốn gặp mặt các cô ấy dù có cho người gánh núi vàng núi bạc đi thỉnh, chưa chắc đã mời được các cô ấy tới.
Thanh Thanh nổi giận:
- Thân làm kỹ nữ mà họ cũng làm bộ làm phách đến thế à?
Phu thuyền lại nói:
- Sông Tần Hoài này còn nhiều cô khác cũng đẹp, cũng tài ba, để cháu mời hai cô tới hầu hai vị tướng công nhé?
Thừa Chí nói:
- Hôm nay chúng tôi có việc bận sắp phải đi ngay. Mai mốt chúng tôi trở lại du ngoạn, sẽ nhờ bác thỉnh giúp hộ các cô ấy.
Thanh Thanh cười nói:
- Em còn muốn ở lại chơi thêm lát nữa.
Nói đoạn, nàng quay lại dặn bảo phu thuyền rằng:
- Bác cứ đi thỉnh hộ tôi!
Người phu thuyền chỉ mong được khách dặn bảo như vậy. Y liền cất cao giọng gọi vài tiếng. Một lát sau, một chiết thuyền hoa ở bên bờ chèo tới. Hai kỹ nữ vào hạnh có nhan sắc bắc cầu bước sang cúi đầu vái chào Thừa Chí và Thanh Thanh. Tỏ vẻ ngượng ngịu, Thừa Chí vội đứng dậy đáp lễ lại. Thấy chàng có vẻ quê mùa cục mịch như vậy, Thanh Thanh buồn cười quá, nhưng cứ phải cố nhịn. Hai kỹ nữ đó chỉ là hạng tầm thường, một nàng thổi sáo và một nàng ca một bản tiểu khúc, có thế thôi.
Cảm thấy khó nghe, Thanh Thanh cứ cau mày lắc đầu. Thừa Chí khẽ oán trách:
- Chú càng quấy rầy, càng không ra cái thể thống gì?
Thanh Thanh vừa cười vừa khẩn khoản:
- Mắng chửi như thế đã đủ chưa? Để em thổi một bản tiêu anh nghe nhé?
Nói xong, nàng mượn chiếc sáo của nàng kỹ nữ, lấy khăn tay thấm rượu, lau chùi sạch sẽ miệng ống sáo, rồi mới kề miệng thổi. Quả thật âm điệu khác hẳn với nàng kia.
Khi còn ở Thạch Lương, Thừa Chí đã được thưởng thức tiếng thổi ấy rồi. Còn hai nàng kỹ nữ kia, nghe thấy nàng thổi hay quá, đều ngẩn người ra nghe.
Trong lúc mọi người đang nghe Thanh Thanh thổi sáo, không để ý tới một chiếc hoa thuyền lớn vừa chèo đến sát bên, rồi bên có tiếng cười ha hả và tiếng nói thật lớn vọng sang:
- Thổi hay quá! Hay quá!
Vừa dứt lời khen, đã có ba người nhảy sang. Thấy có người đến quấy nhiễu, Thanh Thanh liền nổi giận, để ống tiêu xuống, liếc mắt nhìn thấy người đi đầu cầm quạt phe phẩy, mặc tơ gấm vóc, trạc độ ba mươi tuổi, mày rậm mắt nâu, mặt ngang phè phè. Hai người theo sau là gia đinh, tay cầm đèn lồng, trên đề ba chữ: “Tổng Đốc phủ”
Thừa Chí vội đứng dậy chắp tay chào nghênh đón. Hai nàng kỹ nữ đã quỳ xuống và lạy. Thanh Thanh vẫn cứ ngồi yên như trước. Vừa cười vừa bước vào trong khoang thuyền, người đi đầu lên tiếng nói:
- Tôi sang quấy phá thế này thật không phải!
Nói xong, y bệ vệ ngồi xuống, Thừa Chí hỏi:
- Xin Ngài cho biết quý tánh đại danh?
Người nọ chưa trả lời, một kỹ nữ đã vội vã giới thiệu:
- Thưa tướng công, Mã công tử là công tử Tổng Đốc phủ Phụng Dương đấy ạ!
Mã công tử không thèm hỏi lại tên họ của Thừa Chí, chỉ lim dim đôi mắt, nhìn tròng trọc vào mặt Thanh Thanh, rồi vừa cười vừa nói:
- Cậu ở đâu vào thế? Thổi tiêu hay đến thế là cùng! Sao không lại đây hầu hạ đại gia! Hà! Hà! Hà!
Thấy y cho mình là hạng dọn bát, Thanh Thanh cau mày định giở mặt thì Thừa Chí đưa mắt ra hiệu, bảo nàng hãy nên chịu đựng, rồi nói:
- Chú ấy là em tôi. Chúng tôi đến Nam Kinh này thăm bạn.
Mã công tử hỏi:
- Thăm bạn nào? Hôm nay gặp gỡ nơi đây làm bạn với tôi, cam đoan hai người khỏi phải lo ăn lo mặc.
Tuy trong lòng...