Súng AK báng xếp của anh hùng Lê Mã Lương, tụi mày ơi!
Truyện Lê Mã Lương trong thư viện trường đứa nào cũng đã đọc qua nên khi nghe Quang reo lên, chúng tôi vội vàng xúm lại quanh khẩu AK đã đi vào huyền thoại kia. Cả mấy đứa tổ khác cũng đổ dồn lại, trầm trồ và sờ tay vào nòng súng mát lạnh. Thằng Tú còn tính nhấc cây súng lên đeo thử nhưng thầy Dân không cho.
Lát sau, tới phiên Bảy hô hoán:
- A, súng của chị Út Tịch nè!
Vẻ mặt Bảy hớn hở như bắt được vàng. Gần đây, nó rất mê chuyện mẹ con chị Út Tịch nên khám phá ra khẩu súng của chị đối với nó cũng quan trọng như Crít-tốp Cô-lông khám phá ra châu Mỹ. Tụi tôi lại bu lại. Đó là một khẩu cạc-bin báng xếp. Nhà sinh vật tỏ vẻ nghi ngờ:
- Phải súng của chị Út Tịch thiệt không mày?
Bảy hất hàm:
- Chớ gì nữa! Mày đọc tờ giấy chú thích kia kìa!
Quang gãi cổ:
- Thì của chị Út Tịch. Nhưng chắc gì là chị Út Tịch trong sách. Sách là người ta chỉ bịa ra thôi!
Bảy lộ vẻ lúng túng. Tôi liền giải vây:
- Không phải cuốn sách nào cũng tưởng tượng ra đâu. Chị Út Tịch là nhân vật có thiệt. Chị tên là Nguyễn Thị Út, được phong anh hùng. Nhà văn Nguyễn Thi đi dự đại hội anh hùng, gặp chị Út Tịch nên về viết cuốn “Người mẹ cầm súng”.
Bảy liếc Quang:
- Đó, thấy không! Tao nói chị Út Tịch là chị Úy Tịch mà!
Nhưng cái thằng Bảy này, mặc dù gần đây đã có nhiều tiến bộ nhưng cái “máu điệp viên” vẫn còn chảy âm ỉ trong người nó. Chính vì vậy mà cây cạc-bin của chị Út Tịch cũng không giữ chân nó lâu hơn bức ảnh chụp đài quan sát trên ngọn cây của anh Thái Văn A ở đảo Cồn Cỏ. Chính từ trên đài quan sát được ngụy trang ở giữa tầng trời này, anh Thái Văn A đã bắn rơi máy bay Mỹ. Nó đứng ngắm hoài tấm ảnh, miệng hít hà:
- Ổ phục kích này hết sẩy hén mày! Phải chi tao được trèo lên đó một lần!
Nghe nó ao ước, tôi phì cười:
- Cái chân của mày đi dưới đất còn chưa xong nữa là leo lên cây!
Bảy thì vậy, còn Quang thì dán mắt vô những tấm ảnh chụp đàn voi thồ lương thực và vũ khí trên Tây Nguyên. Nó vừa coi vừa nói gì đó với Đại và nhỏ Hiền, còn hai đứa này thì vểnh tai nghe một cách chăm chú. Tôi nhón gót đi sè sẹ lại sau lưng, và đúng như tôi nghĩ, nhà sinh vật đang thao thao bất tuyệt về đời sống của voi:
-… Khi voi bị phạm lỗi, người quản tượng xử phạt rất nghiêm, có trường hợp người ta mang con voi phạm lỗi ra bãi voi làng cho những con voi khác trừng trị…
Tôi tính chọc nó chơi nhưng thấy nó đang say sưa diễn thuyết nên thôi và lảng đi chỗ khác. Đập vô mắt tôi là một cái lưỡi cuốc cũ mèm, han gỉ, lại nhỏ bằng nắm tay. Tôi vừa lạ lùng về kích thước lưỡi cuốc vừa băn khoăn không hiểu cái lưỡi cuốc vứt đi này có gì hay ho mà cũng được trưng bày. Giữa bao nhiêu thứ vũ khí oai vệ khác chung quanh, cái lưỡi cuốc cũ kỹ nằm trơ vơ một cách lạc lõng. Tôi lại gần lẩm nhẩm đọc hàng chữ chú thích: “Đây là lưỡi cuốc của bà Võ Thị Thơi ở Củ Chi đã dùng để đào hầm trong hai mươi bảy năm liền”. Tôi như không tin vô mắt mình. Trong hai mươi bảy năm, một khoảng thời gian dài dằng dặc, dài gấp đôi thời gian tôi có mặt trên đời, một người phụ nữ chân yếu tay mềm đã đào địa đạo bằng chính cái lưỡi cuốc nhỏ nhoi này. Kinh khủng! Tôi liền ngoắc mấy đứa trong tổ lại coi.
Nhỏ Hiền đọc tờ giấy liền le lưỡi:
- Thiệt là đáng nể! Hiền chắc chẳng khi nào làm được như vậy!
Con nhỏ nói lãng nhách! Nếu nó làm được như bà Võ Thị Thơi thì tên tuổi nó đã được trưng bày ở đây rồi còn gì!
Thằng Quang sờ tay lên lưỡi cuốc, chắc lưỡi:
- Đào riết, lưỡi cuốc mòn hết trơn, còn lại có chút xíu!
Không biết tụi bạn nghĩ sao chớ cái lưỡi cuốc cổ lỗ kia khiến tôi bâng khuâng ghê lắm. Nghĩ đến hình ảnh một người phụ nữ ngày đêm miệt mài đào hầm đánh Mỹ suốt gần ba chục năm, tôi cảm thấy một điều gì giống như là nỗi xấu hổ dâng lên trong lòng. Nhất là
khi nãy, tôi rất ngỡ ngàng khi nhìn thấy chiếc xe đạp thồ đường Trường Sơn. Chiếc xe đạp rất đặc biệt. Vành hai lớp, căm to, vỏ cũng to. Chính giữ ghi-đông chần thêm một miếng sắt hìng tam giác, từ đó bắt song song với phụt hai que sắt lớn chạy thẳng xuống đùm. Mỗi bên tay cầm còn được nối dài thêm bằng một đoạn tầm vông. Chính chiếc xe đó đã thồ biết bao nhiêu tấn hàng đi trên đường núi cheo leo, hiểm trở, có khi vừa mở rừng vừa đi, ngày cũng như đêm, đưa lương thực, vũ khí, thuốc men ra mặt trận. Người thồ hàng không cỡi trên xe mà đi bộ, hai tay cầm hai đoạn tầm vông nối dài từ tay lái. Coi chiếc xe rồi nhìn lên các tấm hình chụp cảnh đoàn xe thồ đang làm nhiệm vụ mới thấy hết sức lao động kỳ diệu và ý chí sắt thép của con người.
Đi xem triển lãm về, bên cạnh những ấn tượng mới mẻ khác, hình ảnh xe đạp thồ và cái lưỡi cuốc mòn gỉ kia đã làm tôi nghĩ ngợi rất lâu.
Thằng Đại không biết gì về những nghĩ ngợi đó cho nên sáng hôm sau, khi tới lớp, thấy tôi lúi húi xới đất ngoài vườn cây, nó ngạc nhiên một cách thích thú:
- Ủa, sao hôm nay mày siêng bất tử vậy nè!
Chương 11:
Kể từ ngày đi xem triển lãm về, tật làm biếng rời bỏ tôi, tất nhiên không phải cùng một lúc. Với những chuyện đã trải qua trước đó, tôi cũng mơ hồ nhận ra rằng chỉ có siêng năng, chịu khó mới thành công ở đời (thằng Quang là một tấm gương trước mắt, kể từ ngày kiên trì học nhóm, nó tiến bộ thấy rõ) và tính lười nhác không được ai nể nang. Nhưng phải đến khi “gặp” bà Võ Thị Thơi thì mọi chuyện mới rõ ràng đối với tôi. Từ việc học tập, lao động đến sinh hoạt, kiểm điểm lại, tôi thấy mình còn thua xa so với thiên hạ. Đầu đuôi cũng tại tôi ít chịu cố gắng. Tôi nhớ lại chuyện thằng Thành hôm trước. Nó với thằng Tú đều ở tổ mười, đều nghịch như nhau, nhưng thằng Tú nghịch mà siêng, còn Thành thì lười. Nó lười còn “ác” hơn tôi. Ai đời trực quét sân mà nó bỏ tới ba buổi liền. Thầy Dân nhắc nhở, cảnh cáo hai, ba lần nó vẫn không chừa. Tới lần thứ ba, thầy Dân gởi sổ liên lạc về nhà mời ba nó lên. Nó giấu biến sổ và nói dối thầy là ba nó bận. Thầy Dân tới nhà, mới rõ đầu đuôi sự việc. Thế là thằng Thành bị đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường. Bữa đó ba nó phải hứa hẹn đủ điều, lại phải làm tờ cam đoan nữa, thằng Thành mới được học tiếp.
Nghĩ tới chuyện đó, tôi phát ớn lạnh. Gì thì gì, tôi không bao giờ để bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Nghĩ tới cảnh ba tôi phải ngồi trong văn phòng ban giám hiệu, đau xót nghe các thầy cô kể tội con mình, tôi thấy thà độn thổ cho xong.
Thấy tôi tự dưng đâm ra gọn gàng, ngăn nắp, chịu mó tay vô chuyện nhà, má tôi mừng lắm:
- Thằng Huy độ rày thay đổi quá xá!
Ba tôi phát biểu:
- Thì nó lớn rồi nó phải khá lên chớ!
Nghe khen, tôi khoái chí lắm. Lâu lắm rồi tôi mới được ba má khen tôi “khá”, lại còn kèm theo “nó lớn rồi” mới hách xì xằng chớ. Điều thầy Dân nói từ đầu năm học đến nay mới có người xác nhận.
Thằng Tin thì chứng nào tật nấy. Tôi làm gì nó cũng tò tò đi theo sau lưng để coi thử tôi “thay đổi” như thế nào. Nhưng bây giờ thì tôi kệ xác nó, không thèm đếm xỉa. Tôi làm vì tự giác, vì tôi thích làm chớ đâu phải làm cho nó coi. Nó bám theo tôi suốt hai ngày, rồi tuyên bố:
- Anh siêng thiệt chớ không phải giả bộ!
Từ đó, tôi thoát khỏi sự quấy rầy của thằng em trời đánh.
Ở lớp cũng vậy. Trong những buổi trực sinh, tôi lao động thực sự chớ không phải miễn cưỡng như mọi khi. Còn việc chăm sóc cây thì khỏi chê. Đại không nói gì nhưng nó lộ vẻ hài lòng thấy rõ. Nhỏ Hiền dường như cười với tôi nhiều hơn. Những lúc bắt gặp ánh mắt ấm áp của Hiền, tôi nhủ bụng, nếu lớp giao mình tôi chăm sóc cả vườn cây nhất định tôi sẽ không từ chối. Nhưng lời khen “giá trị” nhất là của thằng Hùng, chi đội trưởng kiêm lớp phó lao động. Nó biểu dương tôi trong tiết sinh hoạt lớp:
- Bạn Huy trong thời gian qua đã có những tiến bộ lớn trong tham gia lao động. Đó là một tấm gương tự rèn luyện đáng học tập. Đề nghị chúng ta cho một tràng pháo tay!
Cả lớp vỗ tay rần rần khiến tôi đỏ bừng mặt, vừa sung sướng vừa ngượng ngùng. Một cảm giác mới mẻ tràn ngập hồn tôi. Tôi nhìn sang Bảy và thấy nó cũng đang nhìn tôi, nhe răng cười. Có lẽ nó cũng sung sướng không kém gì tôi.
Bảy sung sướng còn vì một lẽ khác nữa. Đó là, song song với việc tích cực lao động, tôi đã bắt đầu chăm chỉ học toán. Tôi quyết tâm phải chinh phục cho bằng được cái môn học nhức đầu này. “Oán” thì “oán” nhưng học thì vẫn phải học. Biết làm sao! Vì thế mà độ rày Bảy không phải vừa giảng bài vừa canh chừng cặp giò ưa chạy của tôi nữa. Mà cái môn toán kể cũng lạ! Học chăm chỉ chừng vài buổi, tôi phát hiện ra đằng sau cái bề ngoài rắc rối, bí hiểm của nó, môn toán lại là một môn học hết sức sáng sủa, rõ ràng. Bất cứ việc gì cũng có quy tắc của nó. Vấn đề là phải nhớ những quy tắc và biết áp dụng nó trong từng trường hợp cụ thể. Đó là cái chìa khóa để mở cánh cửa toán học. Trước giờ thấy cánh cửa này đóng kín mít, lại gắn một cái ổ khóa to tổ bố, tôi phát ngán, lo thối lui, lo “oán” nó mà quên việc đi tìm chìa để mở.
Bây giờ sau khi “tỉnh ngộ”, sau khi kiên nhẫn ngồi dán mình vô bàn học ở nhà Bảy với một tinh thần cầu tiến thực sự, tôi đã nắm được cái chìa khóa vạn năng trong tay. Tất nhiên, cần phải biết cách mở khóa. Nhưng mở như thế nào, điều đó không lo, Bảy sẽ hướng dẫn tôi.
Nhưng tiếc một nỗi là, tôi tìm được chìa khóa hơi muộn màng. Vì vậy mới xảy ra sự kiện đáng nhớ sau đây.
Gần đến kỳ thi học kỳ một, liên đội trường tôi tổ chức những cuộc thi hái hoa đân chủ giữa các lớp cùng khối, vừa để vui chơi vừa nhằm kiểm tra tình hình ôn tập của học sinh. Cuộc thi giữa các lớp khối 8 được tổ chức vào chiều thứ bảy.
Vì không đủ thời gian nên đáng lẽ tất cả học sinh đều tham dự, điều lệ của ban tổ chức quy định mỗi lớp chỉ được cử mười người.
Ở lớp tôi, sau khi các tổ đề xuất, ban chỉ huy chi đội và ban cán sự lớp bàn bạc lựa chọn. Thực ra, trong những trường hợp như thế này, ý kiến của Kim Liên, lớp phó học tập, thường có tính chất quyết định.
Kết quả là trong mười người chọn đi thi, tổ tôi có tới ba mống. Tôi chịu trách nhiệm về những câu hỏi của môn văn, Bảy, môn toán và Quang, sinh vật. Đại học giỏi đều nhưng lại không xuất sắc hẳn môn nào nên không được đưa vào danh sách.
Một giờ chiều ngày thứ bảy, hội trường chật ních người. Ngoài những thí sinh chính thức, số học sinh còn lại của các lớp cũng kéo nhau tới trường, vừa ham vui vừa tò mò muốn theo dõi cuộc thi. Số khán giả dự thính này ngồi đầy nghẹt các dãy ghế phía sau và đứng chen chúc ồn ào ở cuối phòng, to tiếng bàn cãi và đánh cuộc về những đề thi cũng như về kết quả xếp hạng cuối cùng. Mười đứa lớp tôi ngồi vào hai dãy bàn có ghi chữ 8A2 bằng phấn trắng. Tôi, Bảy và Quang ngồi xúm lại một chỗ. Đứa nào đứa nấy hồi hộp liếc lên bàn ban giám khảo. Ở đó, có mặt tất cả các thầy cô dạy lớp 8 mà chúng tôi quen biết. Thầy Dân ngồi ngoài bìa, động viên tụi tôi bằng ánh mắt ấm áp, vui vẻ. Nhưng điều đó không làm cho tôi bình tĩnh. Thiệt lạ, trước bất cứ cuộc thi nào cũng vậy, kể cả cuộc thi điền kinh hằng năm trong trường, tôi luôn rơi vào tâm trạng bồn chồn, thần kinh căng thẳng một cách khó chịu, không cưỡng được.
Mấy đứa bàn dưới có vẻ tự tin hơn. Kim Liên và thằng Cang đang trao đổi với nhau gì đó về những câu hỏi sắp xảy ra lát nữa đây.
Bên cạnh bàn ban giám khảo, trước tấm bảng đen là một cây không rõ cây gì, trồng trong chậu sành, cành lá sum sê, có gắn rất nhiều hoa giả. Trên mỗi cành cây, lủng lẳng những mảnh giấy đủ màu cuộn tròn, trên đó ghi những câu hỏi mà lát nữa đây chúng tôi sẽ mở ra.
Không khí huyên háo, những lời thì thầm to nhỏ lập tức im bặt khi cô Thanh, giáo viên dạy văn chúng tôi năm lớp bảy, cũng là bí thư chi đoàn trường, bước ra bục gỗ, cầm lấy mi-crô. Bằng giọng nói rõ ràng, hơi nhấn mạnh chữ cuối câu, cô nhắc lại mục đích ý nghĩa của cuộc thi, giới thiệu các thầy cô giám khảo và cuối cùng chúc chúng tôi đạt được kết quả tốt trong cuộc thi hôm nay cũng như trong kỳ thi học kỳ một sắp tới. Sau đó, cô nhường mi-crô lại cho chị Quyên. Chị Quyên là học sinh lớp 9, ủy viên học tập của liên đội, sẽ là người trực tiếp điều khiển chương trình.
Với nụ cười tươi tắn muôn thuở trên môi chị Quyên công bố cách thức cuộc thi. Nghe tới đâu, mồ hôi tôi toát ra tới đó. Thể lệ cuộc thi là một cú bất ngờ đối với tôi, cũng có thể với cả các lớp khác. Theo như các cuộc thi hái hoa dân chủ tổ chức trước đây thì sau khi cử người lên “hái ” câu hỏi, lớp dự thi có quyền chỉ định người trả lời. Ví dụ như, nếu Quang lên bắt nhằm câu hỏi văn thì “người hùng” sẽ là tôi. Chọn người đi dự thi lần này, lớp tôi cũng chọn trên cơ sở đó. Ai dè, cách thức cuộc thi do chị Quyên công bố lại khác hẳn: Người nào lên “hái hoa” người đó bắt buộc phải trả lời câu hỏi mình bắt được. Như vậy có nghĩa là nếu nhà sinh vật mà tóm phải câu về văn thì chưa chắc nó đã trả lời xuôi, còn tôi mà bắt trúng câu hỏi toán thì đời tôi có thể… tàn. Dĩ nhiên, trong trường hợp người đứng trên bảng đáp sai thì những người ngồi dưới được quyền bổ sung hoặc trả lời giùm. Nhưng như vậy, lớp đó sẽ bị trừ điểm. Nghĩ đến chuyện bắt nhằm đề toán, tôi giật mình thon thót. Nếu vậy, không biết sự thể sẽ ra sao. Đến nước này thì không thể trốn tránh vào đâu được. Thể lệ đã quy định các học sinh đăng ký tham gia cuộc thi đều phải lần lượt lên bảng.
Tôi nhìn sang bên cạnh. Quang tỏ vẻ lo âu. Và nhỏ Kim Liên, đội trưởng đội tuyển, không giấu được sự hồi hộp. Còn các đồng đội khác của tôi vẫn bình tĩnh như thường. Rõ ràng là chúng, những học sinh toàn diện, không ngán cách thi mới. Tôi cay đắng và buồn bã hiểu ra điều đó. Nói cho đúng ra, tôi không hề phàn nàn hoặc có ý nghĩ phản đối cách thi này. Người kém thông minh nhất cũng có thể thấy được sự tiến bộ của kiểu thi này so với kiểu thi cũ. Nó loại trừ kiểu học đối phó, kiểu học phân công. Nó đòi hỏi người học sinh phải học toàn diện và ôn đầy đủ, không được phép lơ là hoặc coi nhẹ bất cứ môn học nào.
Nhưng thể lệ chỉ công bố ngay trước cuộc thi khiến tôi bị hố to và nhỏ Kim Liên, đứa chọn tôi, cũng bị hẫng. Tôi chỉ còn cách nhắm mắt cầu nguyện cho câu hỏi toán không rơi trúng đầu tôi.
Trong lúc tôi “cầu nguyện” thì cuộc thi bắt đầu.
Lớp 8A1 lên trước. Bên đó cử thằng Vương. Nó vừa bước lên bảng vừa mỉm cười tự tin. Cả hội trường im lặng theo dõi từng cử chỉ của nó. Đứng trước cái cây bí hiểm nhiều cành nhánh kia, nó phân vân một thoáng rồi bứt đại cuộn giấy màu vàng. Chúng tôi căng mắt nhìn những ngón tay của Vương đang lóng ngóng mở cuộn giấy vo tròn.
Đọc thoáng qua câu hỏi, Vương quay sang chị Quyên ra ý hỏi. Chị Quyên nói:
- Em cứ đọc lớn câu hỏi lên. Và sau đó trả lời.
Vương hắng giọng đọc:
- Phát biểu định luật bảo toàn khối lượng các chất, và giải thích định luật theo thuyết nguyên tử – phân tử.
Đám đông bên dưới ồ lên:
- Dễ quá!
Đó là câu hỏi hóa học về định luật của Lô-mô-nô-xốp. Nếu gặp phải câu hỏi như thế này, tôi cũng có thể đáp được.
Tất nhiên Vương trả lời trôi chảy và chính xác, kiếm điểm mười ngon ơ mà lại khỏi giải bài tập. Lớp 8A1 vỗ tay lốp bốp, đầy phấn khởi.
Tới phiên lớp tôi. Kim Liên hỏi nhỏ:
- Bạn nào xung phong lên trước?
Không đứa nào trả lời, chỉ có những ánh mắt nhìn nhau dò hỏi. Riêng tôi, tôi nhìn xuống, tránh ánh mắt của Kim Liên và tụi bạn, bụng nghĩ: mình sẽ lên sau, để coi đứa lên trước làm ăn ra sao đã!
Trong khi tôi tính toán thì thằng Cang đứng dậy:
- Để tôi.
Nói xong, nó bước ra khỏi chỗ. Cang là “vua vẽ bản đồ” lớp tôi. Nó có năng khiếu hội họa, lại đi học thêm, nên vẽ đẹp hết biết. ở trường, nó chuyên môn trang trí báo tường của lớp cũng như của liên đội. Lớp tôi dành nó cho môn địa, để coi thử nó bắt phải môn gì.
Cang chọn mẩu giấy màu đỏ, mở ra và đọc to đề trước sự hồi hộp của chúng tôi. Đó là một bài toán vật lý liên quan đến mặt phẳng nghiêng.
Nghe xong đề, Bảy thở phào:
- Đề này thằng Cang làm dư sức!
Quả thực, Cang đã đem về điểm mười đầu tiên cho lớp tôi trong sự hoan hô ầm ĩ của đồng đội.
Tiếp đó, tụi 8A3 và 8A4, mỗi lớp cũng kiếm một điểm mười cho mình.
Bắt đầu vòng thứ hai, 8A1 lại xơi một con mười nữa.
Tới 8A2 chưa ai nói gì thì thằng Quang tự động phóc lên bảng khiến đứa nào cũng trố mắt ngạc nhiên. Tôi cũng không hiểu tại sao bữa nay nó bạo dạn dữ vậy. Chẳng phải là học sinh toàn diện, cũng chẳng phải là người quen thi thố tài năng, vậy mà nhoáng một cái, chưa ai kịp có ý kiến, nó đã tót lên trên kia và câu hỏi đã nằm trong tay rồi.
Tôi ngồi yên không trả lời. Bảy không hiểu tiếng la của tôi. Tôi hô “chết”, không phải chết thằng Quang mà là chết tôi. Bởi vì, nếu vừa rồi tôi xông lên biết đâu tôi đã bắt được câu hỏi ngon lành này. Còn từ giờ trở đi thì chỉ có trời mới biết cái gì đang chờ đợi tôi.
Sau khi phân tích câu một cách chính xác, Quang hớn hở đi xuống. Tôi giật áo nó:
- Sao mày bạo gan dữ vậy?
Quang nhe răng cười hì hì:
- Bạo gan gì đâu?
- Sao mày dám lên trước?
- Thì đằng nào cũng phải lên, thôi thì lên đại cho rồi! Lên sau, tao sợ mấy đứa kia bắt hết câu hỏi về sinh vật. Cũng may là đụng ngữ pháp!
Thằng này hên thiệt! Tôi nhủ thầm và ngẫm nghĩ một hồi, thấy cái kiểu suy luận liều mạng của nó coi ra cũng có lý. Đúng rồi, mình phải nhanh chân lên chớ không tụi nó bắt hết những câu hỏi về môn văn. Nghĩ vậy, nhưng khi đến lượt lớp tôi, tôi vẫn ngồi yên nhường cho Kim Liên lên. Nó bắt phải câu hỏi sử dễ ợt khiến tôi tiếc hùi hụi.
Trong khi tôi chần chờ thì Quang đã lập thêm một thành tích. Thành tích này còn sáng: Di hơn khi nãy.
Số là nhỏ Ngọc Điệp bên lớp 8A4 bắt phải đề sinh vật có hai câu hỏi. Câu thứ nhất hỏi về sự khác nhau giữa cá chép và cá mập thì nó trả lời được, vì đã học qua rồi. Câu thứ hai, tức là câu hỏi phụ mới thiệt là nhức óc:
- Cá heo bơi rất nhanh, trong mười giây chúng bơi được 100 mét. Em hãy giải thích vì sao?
Trong bài “Lớp cá” chúng tôi đã học không có đoạn nào nói đến chuyện này. Rõ ràng đó là câu hỏi thầy Hiển đặt ra để thử trình độ hiểu biết của chúng tôi.
Sau khi trả lời xong xuôi câu hỏi thứ...