“giữ uy tín” nhưng dù sao tôi cũng tìm thấy trong đó nhiều phần đúng.
Nhưng điều quan trọng không phải ở chỗ đó. Cái chính là, sau cùng ba tôi kết luận:
- Như vậy là con đã cố chứng minh một điều và cố làm cho người khác tin điều đó là đúng. Để thuyết phục, con đã phải vận dụng lý lẽ. Và để lý lẽ thêm vững chắc, con đã dùng những dẫn chứng. Tất cả những điều vừa rồi, trong cuộc sống hằng ngày, ta thường gọi là tranh cãi hay tranh luận. Trong nhà trường, người ta gọi là nghị luận. Tất nhiên cuộc tranh cãi giữa con và Tin chỉ là hình thức đơn giản, phương pháp không khác nhau bao nhiêu. Bây giờ con đã hiểu văn nghị luận là gì chưa?
Bài vỡ lòng của ba tôi thật là sáng sủa, dễ hiểu. Và đến lúc đó, tôi mới hiểu tại sao ba tôi lại bày ra trò cãi nhau giữa anh em tôi. Chính nhờ những khái niệm rõ ràng đó mà tôi tiếp thu những bài học sau một cách dễ dàng.
Bây giờ, trước những thắc mắc của Bảy và Quang, tôi quyết định áp dụng phương pháp của ba tôi.
Tôi hỏi Bảy:
- Mày thích màu nào nhất?
Bảy ngơ ngác:
- Tao hỏi về văn nghị luận sao mày lại nói chuyện màu mè ở đây?
Tôi gắt:
- Đó là phương pháp của tao, mày đừng có thắc mắc! Sao, trả lời lẹ đi! Mày thích màu nào nhất?
Thấy “ông thầy” nổi nóng, Bảy suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Màu vàng.
Tôi quay sang Quang:
- Còn mày?
Quang ấp úng:
- Cũng… màu vàng.
Cái thằng a dua này làm tôi cụt hứng. Tôi hỏi lại, giọng nghiêm nghị:
- Mày đừng có bắt chước thằng Bảy! Mày nói thiệt đi. Mày thích màu gì?
Quang lúng túng chưa biết trả lời sao thì tôi tiếp luôn:
- Sao, màu gì? Màu đỏ phải không?
Quang gật đầu, sắp sửa rơi vào kịch bản của tôi nhưng không hiểu sao đến phút: Dt, nó lại đâm bướng:
- Tao thích màu vàng.
Tôi tức muốn ói máu:
- Thiệt không?
Quang khăng khăng:
- Thiệt mà.
- Thiệt thì thôi!
Tôi trả lời xụi
lơ.
Sau khi nghĩ thoáng trong đầu một đề tài mới, tôi lại hỏi Bảy:
- Mày thích đi xe hơi hay đi xe lửa?
Mặc dù chưa biết phương pháp giảng dạy của tôi hay dở thế nào, nhưng lần này Bảy không ngạc nhiên nữa. Nó đáp ngay:
- Xe lửa.
- Còn mày?
Tôi hỏi Quang, cặp mắt chăm chú.
Một lần nữa, nó lại làm tôi thất vọng:
- Tao chưa đi xe lửa bao giờ làm sao trả lời.
- Vậy thì mày cứ thích đi xe hơi đi! – Tôi nóng ruột, mớm.
Quang lắc đầu:
- Xe hơi mà thích quái gì! Mùi xăng hôi thấy mồ!
Tôi lại suy nghĩ, đầu quay như chong: Dng. Vừa nghĩ tôi vừa rủa thầm thằng Quang: Trăm sự rắc rối cũng tại nhà sinh vật khỉ gió này! Cuối cùng tôi cũng đặt được một câu hỏi khác:
- Mày thích ăn món gì, Bảy?
Thấy tôi hỏi loạn xạ mà chưa động gì tới văn nghị luận, mặt Bảy hơi lộ vẻ sốt ruột. Tuy vậy, nó vẫn trả lời nghiêm chỉnh:
- Hủ tiếu.
Tôi liếc Quang, trống ngực đập thình thịch một cách hồi hộp. Nhưng tôi chưa kịp hỏi thì nó đã mau mắn:
- Còn tao, tao thích ăn bún hơn.
Tôi nghe nhẹ cả người. Đúng là, hễ dính đến ăn uống là có chuyện ngay. Về khoản này, chẳng đứa nào chịu đứa nào. Tôi đi bước thứ hai:
- Tại sao mày thích ăn hủ tiếu? Nêu lý do coi!
Bảy liếm mép, nói:
- Bở vì trên đời không có gì ngon bằng hủ tiếu. Từng sợi hủ tiếu trắng mịn, mềm mại nằm khêu gợi trong tô hủ tiếu… Tôi chọc:
- Chớ chẳng lẽ hủ tiếu nằm trong tô phở?
Bảy nguýt tôi một cái rồi tiếp tục thuyết trình về hủ tiếu:
- Nước xúp béo ngậy, gia vị thơm tho, thịt bò viên ngọt lịm ăn với hành lá, hành cọng giá, xà lách chấm tương ớt thì không chê vô đâu được. Đó là chưa nói đến hủ tiếu gà, hủ tiếu lòng, hủ tiếu Mỹ Tho, hủ tiếu Nam Vang…
Bảy nói tới đâu, tôi chảy nước miếng tới đó. Cái thằng ác nhơn thiệt, bảo nó nói sơ sơ nó lại tả chi tiết quá xá!
Nhưng thằng Quang thì không màng gì tới món bò viên của Bảy, nó trề môi:
- Hủ tiếu mà ngon lành gì, không bằng một góc bún. Tao kể mày nghe sơ sơ mấy loại bún nè: Bún mọc, bún riêu, bún bò Huế, bún thịt nướng, bún xáo măng, bún thang…
Sau đó, nó đi vào mô tả kỹ lưỡng từng loại, còn chi tiết gấp mấy lần thằng Bảy, để chứng minh vị trí hàng đầu của bún.
Bảy đâu chịu để “bún” tấn công mình, nó nhún vai khinh thường:
- Bún đâu có ăn với lòng bò được. Còn hủ tiếu lòng bò ngon hết sẩy!
Quang nhếch mép:
- Nhưng hủ tiếu không có thịt nướng. Thịt nướng thơm thấy mồ!
- Bún không thể ăn chung với mì. Còn tao có hủ tiếu mì.
Hai đứa cứ vậy ngoác mồm cãi nhau chí: De. Tôi làm trọng tài, vừa theo dõi cuộc tranh luận vừa nuốt nước miếng, trong lòng tự trách mình đáng lẽ không nên đụng đến cái đề tài quá sức hấp dẫn này. Đồng thời, tôi cũng lấy làm lạ khi hai đứa bài xích bún và hủ tiếu của nhau hung hăng như vậy. Gặp tôi, tôi khoái cả hai thứ, chẳng chê thứ nào.
Thỉnh thoảng hai đứa bạn của tôi cũng lạc đề hệt như tôi với thằng Tin hôm trước.
Quang đỏ mặt tía tai:
- Mày chê bún sao bữa trước mày lại ăn?
- Ăn ở đâu? Đừng có xạo!
- Ăn trong căn-tin chớ đâu! Tao thấy rõ ràng!
- Còn mày, mày làm như mày không ăn hủ tiếu vậy! Hừ!
Chỉ đợi có vậy, tôi đập bàn như một quan tòa:
- Đề nghị tranh luận nghiêm túc!
Thế là hai đấu thủ vội vàng trấn tĩnh lại, nghỉ lấy hơi. “Lấy hơi” xong, cải hai lập tức “nhảy xổ” vào nhau, không cần đợi trọng tài ra hiệu. Bảy nhảy xổ vào “bún”, khinh bỉ. Quang nhảy xổ vào “hủ tiếu” dè bỉu.
Đến khi cả hai cãi nhau mệt muốn đứt hơi, không đủ sức xỉ vả món ăn thù địch nữa, đang ngồi thở dốc trên ghế, tôi mới bắt đầu giảng bài, giọng trịnh trọng:
- Như vậy là các bạn đã cố chứng minh một điều và cố làm cho người khác tin điều đó là đúng. Để thuyết phục, các bạn đã phải vận dụng lý lẽ…
Tôi nói hệt những điều ba tôi đã nói với tôi.
Nghe tôi “giảng” xong, Bảy và Quang phục “phương pháp của tôi” sát đất. Bởi vì, mặc dù sau khi tranh cãi chúng vẫn chưa xác định được giữa bún và hủ tiếu thứ nào ngon hơn thứ nào, nhưng chúng đã có một khái niệm rõ ràng về thứ văn nghị luận hiểm hóc.
Buổi học chung đầu tiên kết thúc một cách tốt đẹp. Hai đứa bạn tôi ra về phấn khởi. Bảy không quên cầm theo cuốn sổ tay văn học của tôi.
Còn tôi, sau khi tiễn hai “học trò” ra về liền liếm mép một cái và chạy ngay xuống nhà dưới tìm má tôi, nằn nì:
- Má ơi, ngày mai nhà mình làm bún hoặc hủ tiếu ăn nghen má?
Má tôi gật đầu làm tôi sung sướng vô kể. Nhưng điều mà tôi sung sướng nhất ngày hôm đó là sự vắng mặt của thằng Tin.
Nếu nó ở nhà, thế nào nó cũng “kê” tôi:
- Phần nói về văn nghị luận, anh học lỏm của ba! Lêu lêu!
Chương 6:
Vừa qua, ban giám hiệu và chi đòan nhà trường liên hệ với nông trường Lê Minh Xuân mua được mấy trăm cây bạch đàn con, chuẩn bị phát động phong trào trồng cây trong nhà trường.
Sáng nay, thứ hai đầu tuần, sau khi sinh hoạt lớp mười lăm phút, thầy Dân kêu tổ một và tổ hai lên văn phòng nhận cây về trồng. Các tổ còn lại thì lên nhà kho mượn cuốc về đào lỗ lên miếng đất trống phía sau lớp, chuẩn bị hạ cây xuống.
Chúng tôi vừa hò reo vừa túa ra ngoài, ba chân bốn cẳng chạy đi tim` dì Ba. Dì Ba là người trông kho dụng cụ lao động của trường, trong đó chất đầy những cuốc, xẻng, xà beng, thùng đổ rác, xô xách nước… Dì tính tình cởi mở, dễ gần, sẵn sàng cho chúng tôi mượn bất cứ dụng cụ cần thiết nào vào bất kỳ lúc nào. Nhưng ngược lại, dì rất nghiêm khắc trong chuyện bảo quản. Lớp nào trực quét sân trường mà trả thiếu một cây chổi thôi là đã chết với dì. Dì báo ban giám hiệu, báo giáo viên chủ nhiệm truy ra cho bằng được. Đứa nào làm mất thì phải đền. Không tìm ra kẻ làm mất thì lớp phải trích quỹ ra mua chổi mới. Mượn xẻng, khi trả, xẻng phải sạch. Đứa nào làm biếng, không chịu rửa xẻng trước khi mang tới kho, không bao giờ dì nhận. Tôi từng là nạn nhân của dì, mỗi lần nghĩ lại còn thấy mắc cỡ. Nhưng trong chúng tôi không đứa nào giận dì lâu. Bởi vì, đứa nào cũng thấy nhờ vậy mà kho dụng cụ trường tôi luôn luôn đầy đủ, cần gì có nấy.
Thầy Dân kêu chúng tôi đào mười hàng, mỗi hàng năm lỗ. Tôi đào cái lỗ của tôi ở chính giữa lô đất, hy vọng rằng nếu có gió bão hoặc có gà vịt hay học sinh buổi chiều chạy ngang thì những hàng cây phía ngoài bị gãy, còn cái cây của tôi sẽ chẳng hề gì.
Khi tổ một và tổ hai đem cây con về, thầy Dân hướng dẫn chúng tôi cách rọc bao ni-lông bọc ngoài sao cho khỏi rớt lớp đất bám chung quanh rễ. Tôi giành lấy một trong những cây tốt nhất đem đặt vào lỗ của mình. Thằng Chí bép xép ở tổ hai chạy theo, cự:
- Cây này tao xí phần rồi! Chính tay tao đem từ văn phòng về!
Tôi gạt phắt:
- Kệ mày! Đứa nào nhanh tay đứa đó lấy!
Thấy tôi làm dữ, Chí đành phải chạy đi chọn cây khác.
Nhưng tôi bị hố to.
Sau khi trồng cây xong, thầy Dân giao cho mỗi tổ chăm sóc một hàng. Bắt đầu từ hàng ngoài cùng là tổ một, kế đến là tổ hai, cứ vậy mười hàng giao cho mười tổ. Tréo ngoe làm sao, cái cây “chiến” của tôi lại nằm trong hàng của tổ sáu. Tôi càng đau lòng hơn nữa khi hình lại hàng cây của tổ năm tôi chẳng có cây nào ra hồn cả. Cây thì nhỏ xíu, thấp lè tè, cây thì lơ thơ có hai, ba chiếc lá.
Thằng Đại giao cho tôi cây ngoài rìa. Tôi không chịu. Tôi đòi cây ở giữa, tức là cây của thằng Quang. Quang là nhà sinh vật nhưng nó chỉ mê động vật còn thực vật thì nó không tha thiết lắm, giao cây nào nhận cây nấy, không kỳ kèo lôi thôi như thằng Chí.
Khi các tổ đã chia cây xong, chúng tôi chạy đi tìm cây khô về làm hàng rào. Chúng tôi bẻ cây khô thành từng đoạn ngắn cắm quanh gốc cây.
Đại rào cây của nó xong còn chạy qua rào phụ nhỏ Hiền. Nó cắm cây khô san sát, ken dày như tấm phên, coi rất chắc. Hàng rào của Quang còn “chì” hơn. Nó buộc dây chằng chịt từ dưới lên trên chung quanh các khúc cây khô, trông kiên cố như một pháo đài. Hàng rào của Bảy cũng thuộc loại “chiến”. Chân cẳng nó vậy mà nó cũng cà nhắc đi lượm từng viên gạch về chắn quanh gốc cây. Chỉ có hàng rào của tôi là sơ sài. Tôi nhặt những đoạn cây cong queo do tổ sáu vứt ra, cắm qua loa quanh gốc bạch đàn rồi tót ra trước cửa lớp chơi trò tâng bóng với tụi thằng Tú. Thật ra thì cái tính biếng nhác của tôi độ rày đã giảm bớt nhiều kể từ ngày quê mặt với thằng Tin sau vụ rửa chén không thành công và nhất là sau chuyện đùn cho Bảy trực sinh. Nhưng hôm nay, khi thấy cây bạch đàn “ruột” mà mình o bế ngay từ đầu tới phút: Dt lại lọt qua tổ sáu, tôi đâm nản và chẳng mặn mà gì với chuyện rào cây nữa.
Tôi đang chơi bóng say sưa thì Đại chạy tới:
- Mày rào gì kỳ vậy?
- Gì đâu mà kỳ!
- Mày rào vậy gà nó vặt trụi hết lá cho coi!
Chẳng lẽ mình chịu lép vế trước mặt tụi thằng Tú! Tôi làm mặt lạnh:
- Kệ tao! Cây tao, tao lo!
Nhưng tôi chưa kịp lo thì sáng hôm sau, lúc tôi đang ngồi ôn bài đầu giờ thì Bảy từ ngoài vườn cây chạy vô báo một tin sét đánh:
- Huy ơi, cây của mày gà ăn trụi hết rồi!
Tôi bàng hoàng phóng ra vườn.
Giữa những cây “còn nguyên” thì cây của tôi “điêu tàn” một cách thảm hại. Hôm qua, so với trong tổ thì cây của tôi không nhất cũng nhì nhưng hôm nay thì nó trụi lủi, không còn lấy một chiếc lá con. Những nhánh cây mỏng manh, khẳng khiu hệt bộ xương khô, ngó phát chán.
Thằng Đại nói y như thánh! Tôi nhớ lại chuyện hôm qua và tự nguyền rủa mình không tiếc lời. Đồng thời một sự lo lắng xâm chiếm lòng tôi. Hôm qua thầy Dân nói đến cuối năm học, ngoài việc tổng kết điểm trực sinh, thầy còn căn cứ vô kết quả chăm sóc cây của từng học sinh để xếp loại lao động. Mới trồng có một ngày mà cây của mình đã tả tơi như vậy, chưa biết có sống nổi không, nói gì đến cuối năm! Tôi rơi vào trạng thái buồn rầu trong suốt buổi học, không màng gì đến lời thầy giảng, đầu óc loay hoay nghĩ cách “cứu” mình.
Khi tiếng trống tan học vang lên, tôi vẫn xếp hàng đàng hoàng nhưng sau đó, tôi không đi thẳng ra cổng mà nấp đằng sau căn-tin. Dòm qua kẽ hở, tôi thấy Bảy đang dáo dác tìm tôi, mặt mày nó đầy vẻ ngạc nhiên. Tìm một hồi không thấy tôi, nó khập khiễng ra về, vừa đi vừa ngó lại đằng sau.
Đợi cho sân trường vắng ngắt, tôi rời khỏi chổ nấp, lộn lại chổ vườn cây.
Tôi đứng quan sát một hồi, thoạt đầu hơi lưỡng lự nhưng rồi tôi tặc lưỡi ngồi xổm xuống đất lấy tay moi gốc cây của mình lên. Xong tôi lại đào một cây khác trong hàng của tổ chín, rồi đổi chỗ hai cây lẫn nhau. Tôi không đánh tráo cây “ruột” của tôi bên tổ sáu vì hai hàng nằm kế nhau, dễ bị lộ. Còn ở tổ mười, sự gian lận cũng dễ bị phát hiện vì hàng cây tổ mười nằm ngoài rìa. Tôi chọn tổ chín, nhưng cũng đủ ranh mãnh để không đánh tráo cây tốt nhất. Tôi đào cây tốt vừa vừa, hy vọng chủ nhân của nó không để ý, và nếu để ý, cũng không làm to chuyện.
Xong xuôi đâu đó, tôi phủi tay, sung sướng ra về.
Sáng hôm sau, tôi cố ý đi trễ. Đợi cho tiếng trống báo hết giờ ôn bài, tôi mới lò dò vô lớp. Chẳng có sự xôn xao nào cả, mấy đứa bên tổ chín vẫn cười giỡn rần rần như mọi khi. Tôi ôm tập về chổ ngồi, bụng mừng thầm.
Thấy tôi, Bảy hỏi liền:
- Hôm qua lúc ra về mày đi đâu mà tao tìm muốn chết không thấy?
Tôi đáp, vẻ lơ đãng:
- Tao ở lại tim` cây viết.
Tưởng là xong chuyện, ai dè trong giờ chơi, thằng Tấn la toáng lên:
- Đứa nào đổi cây của tao? Đứa nào chơi xấu vậy?
Phát hiện động trời đó lập tức gây ồn ào kinh khủng. Cả lớp chen nhau uà ra vườn. Thằng Bảy đi đầu. Nó chân cẳng vậy mà lẹ dễ sợ, thót ba cái là đã ra tới ngoài hè. Mấy cái chuyện ly kỳ này hợp với máu “điệp viên” của nó lắm.
Tôi tính ở lì trong lớp, nhưng nghĩ tới nghĩ lui thấy làm vậy khác chi “lạy ông con ở bụi này” nên lò dò ra theo, có điều tôi đi tụt lại sau lưng tụi bạn, trống ngực đập loạn xà ngầu.
Bảy liếc qua một vòng đã biết ngay ai là thủ phạm và đồng thời cũng hiểu tại sao hôm qua tôi mất tích một cách bí mật lúc ra về. Nó ngước nhìn tôi, bằng ánh mắt không biết là thông cảm hay trách móc.
Đại, Quang, Hiền cũng nhanh: Dng hiểu ra vấn đề, nhưng tổ tôi chưa ai nói gì thì thằng Hải tổ bốn hét ầm lên:
- Cái cây thằng Huy hôm qua trụi lủi sao bữa nay lá quá trời vậy nè!
Số là cây của tôi nằm kế cây của Hải nên chuyện “kỳ diệu” của tôi không thể nào che mắt được nó.
Mọi chuyện thế là lở vỡ.
Trong khi Tấn nhào tới cây của nó thì tôi rút êm vô lớp, giả vờ ngồi đọc sách. Ngoài kia, thằng Đại thay mặt tôi xin lỗi thằng Tấn, và sau đó cây chỗ nào trả về chỗ đó. Tôi tiếp tục làm chủ cây bạch đàn trụi lá.
Nhưng điều đó bây giờ không làm tôi phiền muộn lắm. Cái đáng sợ là sau khi vụ đánh tráo bị khui ra, tụi bạn trong lớp nhìn tôi với ánh mắt chế giễu khiến tôi xấu hổ muốn chết.
Bữa đó, bầu không khí trong tổ tôi lặng lẽ như đưa ma. Bảy và Quang ngồi cạnh tôi im lìm suốt buổi học. Nhỏ Hiền thì cặm cụi chép bài, không hề ngó tôi lấy một cái. Chỉ có Đại bực bội lên tiếng:
- Mày làm xấu mặt cả tổ!
Lần đầu tiên, tôi không cãi lại thằng Đại. Tôi cố tập trung nghe giảng mà sao vẫn thấy hai tai nóng ran.
Hậu quả việc làm của tôi không dừng lại ở đó.
Vì bị đào lên lấp xuống nhiều lần, qua ba bữa sau là hai cây bạch đàn của tôi và thằng Tấn đều chết khô. Cả tổ chín kịch liệt kết tội tôi. Còn thằng Hùng, lớp phó lao động, thì nhanh: Dng thông báo cho thầy Dân.
Thầy Dân bắt tôi đóng hai đồng bốn mươi xu để mua lại hai cây bạch đàn, đồng thời kêu tôi viết tự kiểm để đọc trước lớp.
Nghe vậy, tôi buồn kinh khủng. Buồn nhất là thầy Dân đối xử với tôi “cạn tàu ráo máng”, không đếm xỉa gì đến việc tôi là học trò xuất sắc môn văn của thầy.
Đóng tiền mua lại cây con thì tôi không ngán. Tôi chỉ ngán cái màn đọc tự kiểm trước lớp. Nhưng ngán thì ngán, tôi cũng chẳng có cách nào tránh được.
Đứng ra nhận khuyết điểm và hứa sửa chữa trước hàng mấy chục con mắt thật chẳng phải chuyện dễ dàng. Tôi cứ lóng nga lóng ngóng, hai tay bám cứng mép bàn của tổ một, không chịu đứng xích ra giữa lối đi như lời thầy Dân bảo. Mặt đỏ như tôi luộc, đầu cúi gằm xuống đất, tôi ấp a ấp úng đọc từng chữ trong tờ tự kiểm.
Ngắc ngứ mãi một hồi, tôi cũng làm xong “nhiệm vụ” và chạy vụt về chỗ ngồi, nỗi hổ thẹn không để đâu cho hết. Tôi gục mặt trên bàn tự hứa với mình là từ nay đến già cũng không để xảy ra lỗi lầm tương tự nữa.
Có một bàn tay đặt trên vai tôi. Và tiếng nói của Bảy vang lên ấm áp:
- Thôi, đừng buồn nữa, Huy ơi!
*
* *
Trong buổi họp chi đội sau đó, tôi lại bị đóng góp một trận nữa, mặc dù tôi chưa phải là đội viên. Người lên án tôi mạnh mẽ nhất không phải mấy đứa bên tổ chín mà là thằng Hùng chi đội trưởng kiêm lớp phó lao động.
Không phải nó chỉ phê bình tôi chuyện đánh tráo cây của Tấn mà còn lôi ra chuyện tôi giành cây tốt với Chí, chuyện tôi làm hàng rào cẩu thả.
Năm ngoái cũng chính nó là đứa hung hăng nhất trong ban chỉ huy chi đội không đồng ý kết nạp tôi vô đội, với lý do là tôi thường xuyên bỏ trực lớp, còn những buổi làm vệ sinh sân trường thì tôi chỉ cầm chổi huơ hai, ba cái cho có lệ và không bao giờ có mặt đến phút: Dt.
Chính vì nó mà bây giờ thằng Tin lại vô đội trước tôi. Ba tôi bận rộn suốt ngày it’ để ý đến chuyện đó, nhưng mỗi lần thấy thằng Tin mang khăn quàng đỏ lượn qua lượn lại trước mắt, thì ông lại rầy tôi:
- Ở trường, mày sinh hoạt ra sao mà đến giờ cũng chưa được kết nạp vô đội, thằng to đầu kia?
Dĩ nhiên là tôi chẳng sung sướng gì về sự qua mặt của thằng Tin. Ngay từ đầu năm nay tôi định bụng sẽ phấn đấu vô đội. Nhưng tôi chưa kịp phấn đấu thì đã xảy ra chuyện xui xẻo này. Nghe Hùng “phan” tới tấp, tôi giận muốn ứa gan nhưng đành cứng họng. Bởi vì nó nói đâu có đó, chuyện rành rành giữa ban ngày ban mặt, ai chẳng biết.
Nhưng tôi giận Hùng chưa bằng giận Kiến Lửa. Nhân chuyện này, nó lại bò lên bản tin đốt tôi một phát. Vẫn một thứ thơ dỡ ẹc:
Cây mình chẳng lo rào
Để cho gà ăn trụi
Lại đào cây người khác
Đánh tráo cây của mình
Hơn nhau vì sóc vì chăm
Không ai hơn nhau vì chôm vì chĩa.
Lần này, Kiến Lửa đặt thơ năm chữ, cũng chẳng có vần điệu gì ra hồn. Đã vậy, phần cuối lại thêm vô hai câu ngang phè. Rõ ràng là nó bắt chước câu tục ngữ “Bà con vì tổ vì tiên, không ai bà con vì tiền vì gạo” trong bài “Tục ngữ, ca dao về gia đìng và xã hội” học hồi đầu năm. Người ta thì nói “chăm sóc” còn ở đây nó lại viết “vì sóc vì chăm” nghe trái lỗ nhĩ không thể tả. Nhưng tức...