KAIO.PRO - Hệ thống Bán Vàng, Ngọc Xanh, Đồ Item Tự Động 100% của GameHub.Pro
Bài 52: Cảm nhận về bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu
Trong tâm khảm của nhiều người dân Việt Nam, Phan Bội Châu (1867 – 1940) là một nhà yêu nước nồng nàn thiết tha, một nhân vật lịch sử kiết xuất, tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giành độc lập của dân tộc mấy chục năm đầu thế kỷ XX.
Tuy không lấy văn chương làm lẽ sống, nhưng do yêu cầu của cuộc vận động cách mạng, trong hơn nửa thế kỉ cầm bút, Phan Bội Châu sử dụng cả chữ Hán lần chữ Nôm, sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ gồm hàng trăm bài thơ, bài văn và hàng chục cuốn sách bằng nhiều thể loại khác nhau. Và trên thực tế, ông đã trở thành một nghệ sĩ lớn có năng lực biểu hiện phong phú, với tấm lòng sục sôi nhiệt huyết. Chính tấm lòng này đã làm cho thơ văn tuyên truyền cách mạng của Phan Bội Châu có giá trị độc đáo, chinh phục tình cảm của người đọc, khó lẫn với bất kì một áng thơ văn nào khác.
Nghiên cứu văn chương Phan Bội Châu, không thể bỏ qua việc tìm hiểu yêu cầu đặc trưng của văn chương tuyên truyền cách mạng. Yêu cầu và cũng là tiêu chuẩn thẩm mĩ của loại văn chương này trước hết là sự nâng cao nhận thức và gây xúc động đối với người đọc. Cái hiểu ở đây phải trên tầm, có thế mới gắn được với tình cảm được. Trên tầm là ở độ khái quát bao trùm và ở độ sâu sắc, tinh vi. Văn chương tuyên truyền mà chỉ đưa đến cho người đọc cái hiểu mà không kèm theo cái cảm thì không gia nhập được vào vương quốc của văn chương. Thứ đó chỉ là văn chính trị đơn thuần. Văn chương tuyên truyền cách mạng của Phan Bội Châu đã đạt được tiêu chuẩn thẩm mĩ như trên một cách xuất sắc, nhất là ở phương diện gây cảm xúc; vì trước hết, nó là tiếng nói tâm huyết nhất, cao cả nhất, sôi trào nhất của thời đại. Câu thơ của Tố Hữu nói rất đúng bản sắc giá trị văn chương Phan Bội Châu:
Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng.
“Dậy sóng” đây là dậy sóng cảm xúc, sóng huyết tâm. Do phần lớn những sáng tác của Phan Sào Nam xuất phát từ mục đích trực tiếp tuyên truyền cách mạng, khi phân tích thơ văn của ông nên đặc biệt chú ý tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Sau cái chết oanh liệt của Cao Thắng (1893) và Phan Đình Phùng (1896), phong trào Cần Vương đã thất bại. Tuy trên rừng Yên Thế, tiếng súng của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám thỉnh thoảng vẫn vang lên, nhưng thực chất giặc Pháp đã làm chủ tình thế. Dần dần, chúng đặt ách đô hộ lên cả ba kì. Đất nước ta những năm cuối thế kỉ XIX thật là sầu thảm. Câu chuyện bình Tây phục quốc tướng “chỉ là một mớ kí ức tê tái” (Đặng Thái Mai) của người Việt Nam. Nhưng rồi, nhờ truyền thống bất khuất của dân tộc, nhờ ảnh hưởng của “tâm thư” từ nước ngoài…, đến những năm đầu thế kỉ XX, cả một lớp nhà Nho đầy nhiệt huyết đã thức tỉnh với những phong trào Duy tân, Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, chống thuế ở Trung kì…Họ tập hợp nhau lại bắt liên lạc với những lực lượng chống Pháp ở trong nước. Nhiều cậu học sinh cắt nghiến nùi tóc bím trên đầu và quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cử tử để đi tìm lí tưởng mới. Họ thoát li gia đình và xuất dương, đi Tàu, đi Nhật, đi Xiêm. Tất cả chí hướng của thế hệ trí thức yêu nước đều nhắm vào mục tiêu vĩ đại: “Khôi phục nước nhà”.
Trong bối cảnh ấy, năm 1905, Phan Bội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành thành lập tổ chức Duy Tân hội, Phan Bội Châu chia tay bè bạn sang Trung Quốc và Nhật Bản tranh thủ sự giúp đỡ của họ đối với phong trào cách mạng trong nước.
Vào buổi chia tay, Phan Bội Châu đã sáng tác bài thơ Xuất dương lưu biệt bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Bản dịch in trong sách giáo khoa của Tôn Quang Phiệt, nói chung tương đối sát, tuy vậy, có lẽ một vài từ ở câu thứ hai, và đặc biệt câu thứ tám chưa làm nổi bật tinh thần nguyên bản.
Bài xuất dương lưu biệt thể hiện rõ ràng tư thế hào hùng, quyết tâm hăm hở và những ý nghĩ cao cả, mới mẻ của nhà cách mạng Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất ngoại tìm đường cứu nước.
Hai câu đề nhà thơ thể hiện một lí tưởng sống, một hi vọng: Là nam nhi thì phải làm được “điều lạ”. “Điều lạ” tức là điều lớn lao, phi thường. Làm trai thì ắt phải chủ động làm những việc có thể xoay chuyển trời đất, không thể để cho trời đất tự chuyển vận “Há để càn khôn tự chuyển dời”. Ý tưởng táo bạo này có lần đã được tác giả nhắc đến: “Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi – Sinh thời thế phải xoay nên thời thế” (Chơi xuân).
Thực ra, chi làm trai, khát vọng làm được những việc to lớn vốn được Phan Bội Châu ấp ủ, tâm niệm ngay từ rất sớm. Trong tác phẩm Tự thuật Phan Bội Châu niên biểu, ông kể lại: “Từ lúc bé đọc sách hiểu được ít nhiều nghĩa lí vẫn không thiết gì sống theo thói thường như người xung quanh”, ông rất thích hai câu thơ của nhà thơ Trung Quốc – Viên Mai (116 – 1797):
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương.
(Dịch: Bữa bữa những mong ghi sử sách – Lập thân hèn nhất ấy văn chương).
Chí làm trai của Phan Bội Châu đặc biệt được thể hiện rõ vào thập niên đầu của thế kỉ XX khi cụ Phan có điều kiện xuất dương cứu nước.
Chí làm trai là một trong số nội dung thường được nhắc đến trong văn học phong kiến:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
(Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)
Làm trai dặm ngàn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
(Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm dịch)
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ)
Tạm gác quan niệm “nam nữ tôn ti”, nội dung chí làm trai nói trên có những điểm rất đáng trân trọng, giúp cho nhiều người lập nên nhiều công tích vang dội có ích cho xã hội. Nói riêng đối với trường hợp Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước thoát khỏi ách nô lệ. Trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, như đã trình bày ở phần trên, việc khẳng định chí nam nhi có ý nghĩa to lớn.
Tiếp đến hai câu thực, Phan Bội Châu nhấn mạnh đến vai trò của đấng nam nhi:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?
Theo quan niệm của người xưa, một đời người là 100 năm; do đó, “giữa khoảng trăm năm” chính là chỉ cuộc sống hiện tại. Còn “ngàn năm sau” là nói đến lịch sử, nói đến tương lai. Câu đầu của phần thực, người dịch chuyển chữ “ngã” thành chữ “tớ”. “Tớ” nói được cái hăm hở, lạc quan, trẻ trung nhưng làm mất đi sự trịnh trọng, đường hoàng, không thật phù hợp với nội dung chung của đoạn thơ: Long trọng tuyên bố về một lẽ sống, một tư thế vào đời của đấng tu mi nam tử. Hơn nữa, câu thơ dịch thanh thoát, đọc êm tai, nhưng lại làm mất đi âm điệu chắc nịch, nói theo lối “đinh đóng cột” của tác giả. Đọc hai câu thơ trên, ban đầu dễ tưởng cách nói cảu cụ Phan có chút ngông nghênh tự phụ, nhưng thực ra cách nói ấy lại phù hợp với việc bộc lộ ý thức sâu sắc về cái “tôi” cá nhân tích cực. Cái “tôi” này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại (vận mệnh hôm nay của đất nước), mà còn có nghĩa vụ đối với lịch sử dân tộc, để được lưu danh muôn đời. Như vậy, hai câu thơ ở phần này tiếp tục nhấn mạnh nội dung chí làm trai ở hai câu đề: Chí làm trai thể hiện khát vọng to lớn của tác giả, tự nguyện thực thi nhiệm vụ trọng đại mà lịch sử giao phó cho thế hệ Phan Bội Châu. Ở đây, người đọc có thể nhận thấy cảm hứng táo bạo, tư thế hiên hang, ý thức sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh gian khổ vì sự nghiệp cứu nước của người chiến sĩ trong buổi đầu xuất dương.
Ý tưởng này chúng ta có thể thấy rõ hơn ở hai câu luận:
Giang sơn tủ hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh hiêu nhiên tụng diệc si.
Nghĩa là:
Non sông đã chết, sống thỉ nhục,
Hiền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi!
Hơn ai hết, Phan Sào Nam thấm thía sâu sắc nỗi nhục nhã của người dân mất nước, và ông có cách nói mới mẻ đầy tâm huyết gây ấn tượng sâu đậm cho người đọc “Non sông đã chết”. Non sông đất nước được ví như con người. Khi chủ quyền đất nước không còn, thì giống như con người đã chết. HÌnh hài vẫn đó, nhưng tâm hồn đã mất. Sống trong một đất nước đã chất, là một nỗi nhục lớn lao. (Có lẽ chính xuất phát từ quan niệm nêu trên nên một số chí sĩ cách mạng thế hệ Phan Bội Châu thường nói đến việc Chiêu hồn nước (Phạm Tất Đắc), Tỉnh quốc hồn ca (Phan Châu Trinh), Kêu hồn nước (Nguyễn Quyền) hi vọng “hồn đi ròi chắc hồn về rày mai”…Trong hoàn cảnh đã nêu làm cho người khác thấy được nỗi nhục, thấm thía nỗi nhục là điều cần thiết. Bởi lẽ, không thấy được nỗi nhục thì sao tính đến chuyện rửa nhục? Phan Bội Châu nói bằng tất cả nhiệt huyết và sự cổ vũ sâu xa.
Để rửa nỗi nhục này, mặc dù là người xuất thân từ gia đình nhà Nho, có nhiều gắn bó với đạo Khổng sân Trình, thấm nhuần sâu sắc Kinh, Thư nhưng ông sớm nhận ra sách thánh hiền không còn có ích gì trước bối cảnh của thời đại và của đất nước “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”. Biết phủ nhận những tín điều, biết tách mình khỏi quá khứ…chứng tỏ một cái nhìn táo bạo, một dự cảm mới mẻ của Phan Bội Châu.
Nói về cá nhân mình, nhưng Phan Bội Châu cũng thể hiện được lí tưởng sống, quan niệm nhân sinh sáng suốt của cả một thế hệ, một thời đại.
Hai câu kết của bài thơ:
Nguyễn trực trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.
Nghĩa là:
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hai câu luận bộc lộ cảm hứng khoáng đạt, tư thế hào hùng, đặc biệt là niềm lạc quan – “nét tâm lí vĩ đại” (Đặng Thái Mai) của người ra đi. Tiếc rằng lời dịch câu thơ cuối cùng đã phần nào làm mất đi cái lãng mạn, bay bổng của câu thơ trong nguyên tác “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”, chưa phù hợp với giọng điệu chung của bài thơ.
Qua bài Xuất dương lưu biệt, hình ảnh Phan Bội Châu tỏng những năm tháng đầu ra nước ngoài tìm đường cứu nước hiện lên khá đầy đủ. Đây là mọt con người có lòng yêu nước sâu sắc, ý thức sâu sắc về cái “tôi”, có khát vọng làm nên sự nghiệp to lớn, có tư thế hăm hở tự tin, có cái nhìn mới mẻ, táo bạo…Bài thơ là lời tự bạch chân thành, bản thân hình ảnh tác giả - nhân vật trữ tình của bài thơ – có tác dụng động viên khích lệ, tuyên truyền tinh thần cách mạng…
Bài thơ này còn tiêu biểu cho bút pháp Phan Bội Châu với khẩu khí của bậc anh hùng.
• Bài Viết Cùng Chủ Đề