như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Cả bài thơ \"Tràng giang\" bàng bạc trong không khí Đường thi, không khí cổ điển dân tộc. Điều ấy được tạo nên bằng hàng loạt yếu tố được thống nhất nhuần nhuyễn (từ đề tài đến thể thơ, từ hình ảnh đến ngôn ngữ,...). Nào tứ thơ lữ khách trước hoàng hôn, con người trước cái mênh mang của vũ trụ, nào \"lớp lớp mây cao\", \"chim nghiêng cánh\", nào \"khói hoàng hôn\" trên sông nước mênh mông,... tất cả đều phảng phất sắc màu Đường thi, sắc màu cổ điển. Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như \"sâu chót vót\", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.Trong cái \"cũ\" lại ẩn chứa một tình cảm rất thời đại: nỗi buồn cô đơn của một cá nhân trong lòng xã hội thực dân nửa phong kiến.
Bài thơ là một thể hiện đặc sắc của hiện tượng \"bình cũ rượu mới\" thú vị trong văn chương.
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong tất cả những nhà thơ mới thì Huy Cận là nhà thơ có công tô bồi cho lâu đài thơ mới càng thêm lồng lộng sáng đẹp. Là một nhà thơ mới nhưng Huy Cận đã hoà vào dòng chảy của Thơ mới một cách nhuần nhị những yếu tổ cổ điển của văn học trung đại Việt Nam, của Đường thi. Trong nỗi niềm “mang mang thiên cổ sầu” của người phương Đông xưa trước con người và vũ trụ, nhà thơ lồng vào đấy nỗi cô đơn của con người cá nhân ý thức cái tôi cá thể vừa tiếp thu được từ triết học và thơ ca phương Tây.. Cái tôi cá thể từ văn hoá văn học Pháp bước xuống cuộc đời để rồi cảm nhận nỗi cô đơn, bất lực của mình, nên ngoái nhìn về phía quê nhà, về phía truyền thống, mong cầu được sống vói cái ta làng xã ngày xưa. Thơ ông, do đó mà có sự hoà hợp giữa thi pháp thơ Đường với thi pháp thơ tượng trưng Pháp.